Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc
- Thực trạng và giải pháp
1. XK nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc đạt mức tăng trưởng cao và ổn định nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Với dân số hơn 1,3 tỷ người, hằng năm Trung Quốc nhập khẩu một khối lượng nông sản rất lớn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Các loại nông sản Việt Nam NK vào thị trường Trung Quốc bao gồm: cao su, cà phê, hạt điều, rau quả, gạo, hồ tiêu, dầu thực vật… Trong đó nhóm hàng cao su, rau quả và hạt điều chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch XNK hàng nông sản giữa hai nước.
Về cao su: Theo đánh giá mới nhất của Hiệp hội Cao su thế giới, Việt Nam đang đứng thứ tư về XK cao su thiên nhiên, sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Niên vụ 2004-2005, diện tích trồng cao su cả nước đạt 460 nghìn ha trong đó diện tích khai thác chiếm 90% với tổng sản lượng đạt 470-490 nghìn tấn, lượng tiêu dùng trong nước chiếm khoảng 5-10%, phần còn lại dùng cho XK. Năm 2005, XK đạt 400 nghìn tấn với kim ngạch 787 triệu USD, tăng 31,9% so với năm 2004.
Các nước NK cao su chủ yếu của Việt Nam bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, Nga, Đức và Mỹ, trong đó Trung Quốc là nhà NK lớn nhất. Năm 2005, Trung Quốc NK 250 nghìn tấn với kim ngạch 340 triệu USD tăng 55% về lượng và 80% về kim ngạch so với năm 2004. Ngay trong tháng 1/2006, hoạt động XK cao su đã diễn ra nhộn nhịp tại cửa khẩu Móng Cái với lượng xuất bình quân đạt từ 1.000-1.300 tấn/ngày. Trung Quốc hiện chiếm 20% nhu cầu cao su của thế giới và có tốc độ tăng 10-20% hàng năm. Hiện nay nhu cầu tiêu dùng cao su thiên nhiên của Trung Quốc ước khoảng 1,7 triệu tấn/năm, trong đó sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 500-600 nghìn tấn/năm (chỉ có một số khu vực của đảo Hải Nam trồng được cao su nhưng năng suất rất thấp so với Việt Nam) và lượng cao su NK từ Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 1/5 nhu cầu NK cao su của thị trường này.
Mặt khác, do giá dầu thô trên thế giới tăng đẩy giá cao su nhân tạo lên cao khiến nhiều nhà công nghiệp chuyển sang sử dụng cao su thiên nhiên làm cho nguồn cung cao su thiên nhiên trở nên thiếu hụt. Trong vòng 15 năm qua, giá cao su thiên nhiên tăng liên tục và tăng gần 3 lần trong vòng 4 năm từ 2001-2004. Giá cao su tại cửa khẩu Móng Cái trong tháng 1/2006 đạt mức 1.600-1.800 USD/tấn, cao nhất trong vòng 10 năm qua. Tuy nhiên, do chúng ta chủ yếu XK dưới dạng nhựa mủ thô, tỷ lệ chế biến còn thấp nên hiệu quả kinh tế không cao.
Về rau quả: Năm 2005, diện tích cây ăn quả cả nươc đạt 747 nghìn ha, cho sản lượng 6,2 triệu tấn quả, trong đó tập trung nhiều nhất tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long với diện tích 231 nghìn ha, chiếm 34% cả nước, vùng Đông bắc chiếm tỷ trọng 19%, Đông Nam bộ 17%. Trong xu hướng dịch chuyển cây trồng, năm 2006 diện tích cây ăn quả cả nước có thể tăng thêm 5 nghìn ha.
Năm 2005, kim ngạch XK rau quả Việt Nam đạt 235,5 triệu USD tăng 31,67% so với năm 2004. Các thị trường Trung Quốc, Nhật, Đài Loan, Nga có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Trong đó thị trường Trung Quốc vẫn chiếm 42% lượng rau quả XK.
Các loại rau quả XK chủ yếu là dứa và nhãn, mỗi loại chiếm 34%, tiếp đó là vải, thanh long, chuối, xoài… Hiện chỉ có 20% sản lượng quả tươi được sử dụng cho XK tươi và làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Các nhà máy chế biến hoạt động rất cầm chừng, chỉ đạt 20-30% công suất. Rau quả Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu dưới dạng rau quả tươi và phần lớn kim ngạch XK là do các tiểu thương thực hiện theo phương thức buôn bán tiểu ngạch.
Về hạt điều: Trong những năm gần đây, hạt điều đã thực sự trở thành mặt hàng nông sản có giá trị kinh tế cao, vươn lên đứng thứ 4 trong số các mặt hàng nông sản XK của Việt Nam sau gạo, cà phê và cao su. Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về XK hạt điều sau Ấn Độ. Hiện nay cả nước có 280 nghìn ha điều, trong đó diện tích cho thu hoạch khoảng 200 nghìn ha, có thể đạt sản lượng 160 nghìn tấn/năm, 95% lượng điều chế biến được dùng để XK.
Các thị trường tiêu thụ hạt điều của Việt Nam gồm: Trung Quốc, Mỹ, Tây Âu, Ô-xtrây-lia và Nhật. Trước năm 1990, phần lớn hạt điều được XK dưới dạng hạt thô, từ năm 1998, chủ yếu là XK hạt điều chế biến, tuy nhiên mức độ chế biến còn rất thấp, chủ yếu ở dạng nhân điều. Trung Quốc là nhà nhập khẩu hạt điều lớn nhất, chiếm 22%. Năm 2006, kim ngach XK hạt điều đạt 400 triệu USD và năm 2005 ngành điều lại lập một kỷ lục mới với kim ngạch 495 triệu USD.
2. Nguyên nhân nhính của những tồn tại trên
Mặc dù trong những năm gần đây, kim ngạch XK các nông sản chủ yếu vào thị trường Trung Quốc đều có mức tăng trưởng cao và ổn định nhưng đã bộc lộ một số tồn tại sau: hầu hết sản phẩm XK là sản phẩm thô hoặc sản phẩm sơ chế giá bán thấp, sức cạnh tranh thấp do công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch còn rất lạc hậu, mẫu mã chưa phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và không có thương hiệu. Sản xuất và XK nông sản còn phân tán, thiếu tập trung… Hầu hết hàng nông sản Việt Nam hiện nay chưa có thương hiệu, một phần nguyên nhân là do quy mô sản xuất nhỏ nên nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để xây dựng thương hiệu, một phần là do nhận thức không đầy đủ về vai trò và giá trị của thương hiệu trong thương mại quốc tế. Hoạt động XK vào thị trường Trung Quốc vẫn mang tính chất “nghiệp dư”, mạnh ai nấy làm, nhiều khi vẫn “đánh” hàng theo chuyến, vẫn buôn bán theo mùa, theo vụ. DN chưa có chiến lược để khai thác thị trường Trung Quốc một cách hiệu quả, chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động nghiên cứu thị trường này, thiếu nhanh nhạy và năng động để nắm bắt kịp thời những cơ hội khi phía bạn có những điều chỉnh về chính sách XNK. XK nông sản vào Trung Quốc trong thời gian qua chủ yếu tập trung bằng đường tiểu ngạch và thu hút mọi thành phần kinh tế cùng tham gia. Do quản lý hoạt động XNK qua đường biên giới còn kém hiệu quả dẫn đến hiện tượng tranh mua, tranh bán tạo kẽ hở để đối tác ép cấp, ép giá gây thiệt hại cho DN. Việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt hoặc hàng đổi hàng thông qua ngân hàng do đó đã hạn chế hoạt động tín dụng của ngân hàng hỗ trợ cho XK.
3. Một số giải pháp cơ bản để đẩy mạnh XK nông sản Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.
* Hoàn thiện hành lang pháp lý trong quan hệ thương mại Việt – Trung
Hợp tác trong hoạt động kiểm dịch động thực vật. Hiện nay, XK nông sản Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu bằng đường tiểu ngạch. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc không còn khuyến khích nhập khẩu bằng đường tiểu ngạch. Việt Nam cần nhanh chóng chuyển sang hình thức XK chính ngạch để được hưởng những ưu đãi về thuế và tạo điều kiện để đưa các sản phẩm thâm nhập vào các thành phố ở sâu trong nội địa Trung Quốc, nơi có thu nhập cao và lượng cầu lớn. Hiện nay giữa hai nước chưa ký kết hiệp định hợp tác kiểm dịch động thực vật. Vì vậy hai Chính phủ cần đôn đốc các ban ngành hữu quan trao đổi, bàn bạc để sớm đi đến ký kết hiệp định hợp tác kiểm dịch động thực vật theo như đã thỏa thuận tại biên bản kỳ họp thứ tư Ủy ban Hợp tác kinh tế thương mại Việt – Trung.
Phối hợp đẩy mạnh mậu dịch biên giới. Hai nước cần tiếp tục cam kết khuyến khích và đẩy mạnh mậu dịch biên giới, giải quyết vấn đề thanh toán biên mậu, cùng nhau chống lại các hành động trốn thuế, buôn lậu, vận chuyển tiền bất hợp pháp qua biên giới. Xây dựng cơ chế định kỳ phối hợp, trao đổi các biện pháp quản lý và giám sát buôn bán biện giới giữa cấp tỉnh và ban ngành của hai nước để tạo thuận lợi cho DN trao đổi hàng hóa, kiểm nghiệm, kiểm dịch và thanh toán.
Hoàn thiện chính sách thuế. Rau quả XKcủa Việt Nam đang phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ những sản phẩm cùng loại của Thái Lan tại thị trường Trung Quốc. Kim ngạch XK rau quả tháng 2/2006 đã giảm 43,37% so với cùng kỳ năm 2005. XK rau quả đang gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân trong đó một phần là do chính sách thuế bất cập nằm ngoài tầm với của các DN. Rau quả của Việt Nam phải chịu mức thuế 12-24% tại thị trường Trung Quốc, cao hơn rất nhiều so với mức thuế 0% mà sản phẩm rau quả Thái Lan được hưởng từ năm 2004 theo một thỏa thuận song phương giữa Thái Lan và Trung Quốc về cắt giảm thuế quan XNK rau quả.
* Nâng cao chất lượng nông sản XK
Xây dựng các vùng chuyên canh quy mô lớn gắn liền với công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch hiện đại. Để tăng khả năng cạnh tranh chì có một giải pháp là quy hoạch và mở rộng diện tìch, xây dựng các vùng chuyên canh với quy mô rộng lớn gắn liền với các nhà máy chế biến và bảo quản sau thu hoạch hiện đại.
Trong ngành rau quả, công nghệ xử lý và bảo quản lạnh để kéo dài thời gian tươi lâu của sản phẩm hầu như chưa được thực hiện ở Việt Nam. Công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch hiện nay rất thiếu và lạc hậu. Do thiếu kho lạnh và phương tiện vận chuyển đật yêu cầu nên tổn thất sau thu hoạch quá lớn, đến 25-30%, là một tác nhân đẩy giá thành rau quả Việt Nam lên cao nhất khu vực Đông Nam Á, làm giảm khả năng cạnh tranh tại thị trường trong và ngoài nước.
Đầu tư thích đáng cho khâu nghiên cứu sản xuất giống mới, NK giống mới, nhân giống mới và cải tạo giống, hỗ trợ bà con nông dân trong việc sử dụng giống mới để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Kinh nghiệm của Thái Lan là bài học đáng để chúng ta suy ngẫm. Cách đây 20 năm tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản của Thái Lan cũng tương tự như Việt Nam. Nhưng ngày nay, một số mặt hàng nông sản của họ đã vượt xa chúng ta và đã có chỗ đứng vững vàng trên nhiều thị trường thế giới. Một trong những nguyên nhân thành công là Thái Lan rất coi trọng trong khâu “giống”, coi “giống” là yếu tố tạo ra lợi thế cạnh tranh một cách bền vững trong việc đưa sản phẩm thâm nhập thị trường quốc tế. Nguyên tắc của Thái Lan là: giống phải có nguồn gốc rõ ràng, có địa chỉ, có hướng dẫn quy trình thâm canh, có bằng chứng chứng minh giống đó đã được trồng thử nghiệm đạt kết quả tốt. Chính phủ Thái Lan có chính sách hỗ trợ để NK giống mới, lựa chọn, lai tạo và trợ giá cho việc phổ biến giống mới. Chúng ta có nhiều Viện nghiên cứu về giống, nhưng việc phổ biến giống còn nhiều bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do các cơ quan nghiên cứu khoa học và hệ thống khuyến nông không có sự quan tâm, hướng dẫn bài bản cho người sản xuất từ việc chọn giống, chăm sóc thu hoạch và bảo quản. Đây là hệ quả của lối sản xuất tùy tiện, canh tác theo tập quán cũ mang nặng tư duy của nền sản xuất tự cung tự cấp, người dân thìch gì trồng nấy, không quan tâm đến giống cây trồng.
Bài học về xuất khẩu dưa hấu là một ví dụ. Tháng 4/2005, hàng trăm xe chở dưa hấu dồn lại ở cửa khẩu Lạng Sơn không thể xuất vào Trung Quốc. Một phần do bị ép giá, một phần do chất lượng sản phẩm của ta quá thấp, quả xanh quả chín lẫn lộn, quy cách thì “lởm khởm”, đây là hệ quả của lối canh tác lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ bé, chất lượng giống cây trồng không cao. Trong sản xuất điều cũng có tình trạng tương tự, năng suất cây điều của Việt Nam rất thấp so với Ấn Độ, do giống lai tạp. Khả năng cạnh tranh của điều Việt Nam chỉ là chi phí nhân công rẻ, lợi thế này sẽ nhanh chóng mất đi do giá nhân công ngày càng tăng.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia cho sản phẩm nông sản XK, thành lập các cơ quan chuyên trách để kiểm tra, giám sát chất lượng nông sản XK… Để thâm nhập và đứng vững trên thị trường Trung Quốc, nông sản Việt Nam phải được sản xuất từ một nền nông nghiệp sạch, an toàn và bền vững. Tại hội nghị Bảo vệ thực vật các nước Asean diễn ra năm 2005, hệ thống bảo vệ thực vật của Việt Nam được đánh giá nằm trong tốp 4 nước chậm phát triển nhất. Đứng trước thực trạng này, đòi hỏi các hiệp hội ngành hàng phải phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước để xây dựng và sớm ban hành các bộ tiêu chuẩn quốc gia cho nông sản XK, xây dựng quy trình sản xuất an toàn và phổ biến sâu rộng đến người sản xuất. Cần thành lập các cơ quan chuyên trách để giám sát chất lượng nông sản XK, kiên quyết loại bỏ các lô hàng XK không đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
* Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản XK
Không có thương hiệu là tình trạng phổ biến của nông sản XK và là một nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam. Xây dựng thương hiệu phải được xem là những việc cần làm ngay. Trước đây việc xây dựng thương hiệu không được quan tâm một cách đúng mức, các DN sợ chi phí cao, rủi ro lớn không đủ khả năng thực hiện. Sự ra đời của Liên kết GAP Sông Tiền là một tín hiệu đáng mừng với ngành XK nông sản. Với chương trình hoạt động rất cụ thể, liên kết Sông Tiền gồm 51 thành viên đang tiến hành hoạch định chiến lược và xây dựng thương hiệu cho một số thành viên có sản phẩm tiềm năng, tập trung vào 5 loại cây chủ lực bao gồm: xoài, bưởi, dưa, thanh long, chuối.
* Đẩy mạnh thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
Nhà nước cần nghiên cứu và tổ chức tốt hệ thống thông tin thường xuyên về thị trường Trung Quốc. Các DN cần có kênh riêng nghiên cứu về thị trường Trung Quốc, không nên ỷ lại vào hệ thống thông tin của Chính phủ vì hệ thống này khó có thể đáp ứng một cách chi tiết những yêu cầu của DN. Hệ thống thu thập và cung cấp thông tin thường xuyên, nhanh nhất là hệ thống thương vụ và đại diện thương mại Việt Nam tại Trung Quốc. Theo Bộ Thương mại, chương trình thu hoạch sớm EHP được áp dụng từ tháng 1/2004 nhưng XK nông sản vào thị trường Trung Quốc chưa có gì chuyển biến, thậm chí các mặt hàng được hưởng ưu đãi về thuế lại có kim ngạch giảm. Nguyên nhân một phần là do các DN thiếu thông tin và sự nhanh nhạy trong việc chuyển từ hình thức XK tiểu ngạch sang XK chính ngạch để tận dụng những ưu đãi về thuế quan.
* Đẩy mạnh liên kết 6 nhà
Đó là mối liên kết: Nhà nông thực hiện việc thâm canh, chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật canh tác, thu hoạch và bán sản phẩm cho DN theo đúng hợp đồng; Nhà DN bao tiêu sản phẩm và tìm kiếm thị trường để XK; Nhà khoa học nghiên cứu giống và chuyển giao khoa học kỹ thuật canh tác giống cho nông dân; Nhà nước hỗ trợ bằng các cơ chế quản lý thích ứng, cung cấp thông tin và định hướng sản xuất; Nhà băng cung cấp vốn; Nhà báo (cơ quan truyền thông) thực hiện việc quảng bá sản phẩm. Trong mô hình Liên kết GAP Sông Tiền, các thành viên tham gia liên kết đều được ghi rõ chức danh, địa chỉ, phân công trách nhiệm rất cụ thể và được thông báo rộng rãi.
* Hoàn thiện cơ chế chính sách, thúc đẩy sản xuất và XK nông sản
Nhà nước cần thực hiện tốt việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử đất để tạo cơ sở pháp lý cho người sản xuất vay vốn hoặc “dồn điền đổi thửa” cho nhau tạo điều kiện thuận lợi để ápdụng kỹ thuật thâm canh và cơ giới hóa nông nghiệp. Chính phủ cần sớm nghiên cứu và ban hành các quy hoạch tổng thể làm cơ sở cho các địa phương xác định cơ cấu và định hướng sử dụng đất cụ thể, lâu dài cho từng vùng. Nhà nước cần có chính sách bảo hiểm để giúp họ nhanh chóng khôi phục sản xuất và kinh doanh khi gặp những rủi ro khách quan. Chính phủ cần khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hình thành các liên kết như mô hình liên kết GAP Sông Tiền nhằm tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tập thể và tư nhân để hình thành nên những vùng chuyên canh cây nông sản XK tập trung, chất lượng cao, an toàn, gắn liền với việc phổ biến giống, kỹ thuật thâm canh, kỹ thuật bảo quản sau thu hoạch, hoạch định chiến lược, xây dựng thương hiệu, xây dựng hệ thống phân phối và phát triển thị trường cho các thành viên.
Nhà nước cần có chính sách trợ giúp cho các hoạt động XK tại biên giới Việt – Trung bằng cách xây dựng các trung tâm giao dịch thương mại, các kho hàng hóa, kho bảo quản lạnh tại biên giới để hỗ trợ cho các nhà XK.
Theo Tạp chí Thương Mại