Yên Bái đầu tư phát triển cây chè

Là tỉnh miền núi Tây Bắc có điều kiện thổ nhưỡng thích hợp, Yên Bái đã tạo ra vùng chè hơn 12.000ha. Hàng chục nghìn nông dân nhờ cây chè đã có cuộc sống no đủ. Nhiều hộ đã giàu lên nhờ sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm chè. Để phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường, tỉnh Yên Bái đã định hướng phát triển, nâng cao chất lượng chè trong các năm tiếp theo. Toàn tỉnh Yên Bái hiện có 12.290ha chè, gồm: diện tích chè vùng thấp chiếm 78%, chè vùng cao chiếm 28%, với thương hiệu nổi tiếng là chè shan Suối Giàng. Cây chè đã góp phần quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, giải quyết nguyên liệu cho các cơ sở chế biến của tỉnh, trong đó có 77 cơ sở chế biến quy mô công nghiệp; tổng giá trị thu nhập từ cây chè năm 2005 đạt hơn 120 tỷ đồng, nộp ngân sách năm 2005 đạt hơn 12 tỷ đồng. Yên Bái có diện tích trồng chè lớn, song chủ yếu là giống chè trung du, phục vụ chế biến chè đen xuất khẩu. Giá bán đạt khoảng 1USD/kg thành phẩm. 80% diện tích chè là của kinh tế hộ, phần lớn là theo phương pháp quảng canh, chưa bảo đảm về kỹ thuật chăm sóc, thu hái búp tươi, vì vậy năng suất chè chỉ đạt hơn 5 tấn/ha, giá trị mỗi ha chè đạt khoảng 11 triệu đồng/năm, thấp hơn nhiều so với các vùng chè khác. Đối với trồng chè vùng cao, mặc dù nhiều năm tỉnh bỏ ra hàng tỷ đồng đề đầu tư qua các dự án, song do nhận thức không đúng đắn của một bộ phận người dân và cả cán bộ quản lý, nên việc trồng, bảo vệ, chăm sóc chưa tốt. Có diện tích chè shan được khai nhiều lần trong nhiều năm để nhận tiền hỗ trợ trồng mới, làm ảnh hưởng đến quy hoạch và tiền vốn đầu tư. Mặt khác, việc quy hoạch về chế biến chè chưa phù hợp với vùng nguyên liệu. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có 56 doanh nghiệp với 77 nhà máy, xưởng chế biến và kinh doanh chè; tổng công suất chế biến đạt hơn 600 tấn búp tươi/ngày (gấp hai lần so với khả năng cung cấp nguyên liệu); dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh bán quyết liệt. Có cơ sở thu mua cả chè cắt liềm (không hái tay đạt tiêu chuẩn 1 tôm 2 lá); người trồng chè còn tùy tiện dùng thuốc kích thích tăng trưởng, thu hái không đúng lứa, vì thế ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng cây chè. Thậm chí, có hơn 200 hộ tự chế bằng máy quay tay thủ công (bom sấy chè), phơi héo tại các trục đường giao thông… đã hạ thấp chất lượng thành phẩm chè của tỉnh. Điển hình là Cty Cổ phần Chè Trần Phú thuộc huyện Văn Chấn. Thực hiện quyết định 80 TTg, công ty đã ký hợp đồng với 1.543 hộ làm chè, diện tích 568,78ha, sản lượng ký 2.046 tấn chè búp tươi. Thực tế đã diễn ra ngược lại với hợp đồng đã ký; do cạnh tranh thu mua nguyên liệu, khi chè búp tươi được giá, hoặc do thu mua theo hợp đồng phải phân loại, trong khi bán ra ngoài thì chè hái liềm cũng được khách hàng chấp thuận, cho nên hầu hết các hộ “xé rào” bán ra ngoài mà không bán cho công ty. Còn khi khách hàng ngoài hợp đồng vì nhiều lý do không mua chè nữa, các hộ dân lại dồn bán cho công ty, gây tình trạng quá tải nguyên liệu. Năm 2003, công ty mua được 545 tấn; năm 2004 mua được 228 tấn (đạt 11%), năm 2005 chỉ mua được 212 tấn; do vậy năm 2004 công ty lỗ 1,4 tỷ đồng; năm 2005 nhờ cải tiến sản xuất, nên có lãi 478 triệu đồng. Tín hiệu đáng mừng là giống chè shan và các giống chè nhập như: Ô Long, Bát Tiên, Kim Tuyên, Thúy Ngọc… làm chè xanh xuất khẩu đều đem lại lợi nhuận và sản phẩm tiêu thụ trong nước rất được giá; chè Bát Tiên giá 100.000 đồng/kg, chè Ô Long loại 1 giá hơn 1 triệu đồng/kg, chè shan Suối Giàng giá 55 đồng/kg… cao gấp nhiều lần chè đen truyền thống. Để khai thác, phát huy tiềm năng lợi thế về cây chè đòi hỏi Yên Bái phải tổ chức lại ngành chè, nâng cao trách nhiệm của người nông dân với sản phẩm chè mình làm ra; gắn cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu, đưa sản phẩm chè trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, tháng 4-2006, Tỉnh ủy Yên Bái đã ra Nghị quyết về hướng phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, chế biến, kinh doanh chè đến năm 2010, trong đó xác định: ổn định diện tích 13.000ha, tập trung đầu tư thâm canh đưa năng suất chè búp lên gấp hai lần hiện nay, phấn đấu đến 2010 có 20.000 tấn chè thành phẩm, trong đó chè xanh là 6.000 tấn; xây dựng được ít nhất hai sản phẩm chè có thương hiệu trên thị trường, xuất khẩu trực tiếp 50% sản lượng chè xuất ra. Để đạt được mục tiêu này, ngay trong vụ chè 2006 Yên Bái đã gieo ươm được 14,5 triệu bầu giống, gồm: 11,02 triệu bầu chè giống nhập nội; 2,2 triệu bầu chè shan giâm cành; 1,15 bầu giống chè lai LDP đủ trồng mới và thay thế 560ha. Tỉnh tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển cây chè, như: hỗ trợ giống chè (giống nhập nội, chè shan giâm cành mật độ cao), cho trổng mới, trồng cải tạo thay thế với mức 4 triệu đồng/ha theo quy hoạc; năm triệu đồng/ha với giống chè Kim Tuyên. Hỗ trợ 2 triệu đồng/ha để phá chè cũ trồng lại bằng giống chè nhập. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và nâng cấp cơ sở chế biến để sản xuất chè chất lượng tốt, giá trị cao, mang lại thu nhập cho người làm chè. Tìm hiểu việc trồng chè shan giâm cành, chúng tôi đến Lâm trường Văn Chấn, nơi thực hiện dự án từ năm 2002, và đến nay, Lâm trường đã trồng được 203ha. Trên đồi chè shan trồng mật độ 16.000 cây thay vì trồng 3.000 cây/ha được ba tuổi, Giám đốc Lâm trường Phạm Mạnh Đoài khẳng định: Cây chè shan phù hợp thổ nhưỡng vùng cao này, sau ba năm đầu tư, Lâm trường đã có gần 140ha chè tạo tán, nhưng do chưa có nhà máy chế biến, một số diện tích chè búp cho thu hoạch được bán với giá 2.600 đồng/kg. Hiện tại lâm trường đang mở rộng vùng nguyên liệu thêm 100ha chè shan, 200ha chè giống nhập nội, đảm bảo cung cấp 3.000 tấn nguyên liệu/năm. Bên cạnh đó. Lâm trường mở lớp đào tạo công nhân chế biến chè với 70 học viên là con em đồng bào Dao, Thái, Xa Phó trong vùng chuẩn bị nhân lực để đến năm 2007 khi có nhà máy chế biến chè xanh cao cấp xuất khẩu. Được biết, toàn bộ giống giâm cành ở đây được lấy từ 7 cây chè shan Suối Giàng do Viện chè chyển giao công nghệ, vửa bảo đảm giữ gien thuần chủng, vừa áp dụng công nghệ cao vào sản xuất đại trà cho vùng nguyên liệu. Nhằm nâng cao năng suất chè, Lâm trường đã đưa 13 máy bơm và đưa nguồn nước tự chảy tưới cho 60ha chè; chủ động về giống chè shan giâm cành cho Lâm trường Púng Luông và Trạm Tấu, để thời gian tới mỗi nơi này có 50ha chè shan trồng mật độ cao. Để cây chè phát triển theo hướng năng suất cao, chất lượng tốt, hướng tới thị trường thế giới, đồng chí Nguyễn Trung Lợi, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Yên Bái, cho biết: Tỉnh quy hoạch ổn định 13.000ha, trong đó phá bỏ chè giống cũ và trồng bằng giống mới 2.230ha; đưa hơn 5.000ha chè xanh vào kinh doanh; thâm canh để đạt năng suât 10tấn/ha gần 8.000ha chè trung du hiện có (trong đó một số diện tích cần thay thế trồng mới). Tỉnh cũng sắp xếp lại các cơ sở chế biến, chỉ để 46 cơ sở chế biến với tổng công suất đạt 600 tấn chè búp tươi/ngày; đổi mới công nghệ chế biến hiện đại theo hướng công nghệ CTC chè đen chất lượng cao hơn, hoặc các thiết bị chế biến lưỡng hệ (vừa chế biến chè đen, vừa chế biến chè xanh). Tin vui đến với ngành chè Yên Bái, sản phẩm chè Suối Giàng của tỉnh được Hiệp hội Chè Việt Nam tôn vinh thương hiệu quốc gia: Chè Việt. Đây là cơ hội cho sản phẩm chè Yên Bái quảng bá sản phẩm đến khách hàng trong nước và ngoài nước, tạo động lực cho cây chè Yên Bái phát triển, góp phần đưa tỉnh vững bước đi lên trong sự ngiệp đổi mới.

Bảng giá nông sản

Hạt mắc ca70.000
Ca cao180.000
Cao su148.000
Gạo IR 50412.500
Cà phê125.600
Bơ sáp25.000
Sầu riêng Ri đẹp65.000
Điều40.000
Hồ tiêu119.000

[Xem tiếp]

Hỏi đáp

Bình Điền giải đáp các câu hỏi về việc sử dụng phân bón và phòng trừ sâu bệnh cho nhà nông.

Đặt câu hỏiXem câu hỏi

 

Tỷ giá Ngoại tệ

 


Top

TẢI ỨNG DỤNG CANH TÁC THÔNG MINH TẠI ĐÂY

Yên Bái đầu tư phát triển cây chè

Là tỉnh miền núi Tây Bắc có điều kiện thổ nhưỡng thích hợp, Yên Bái đã tạo ra vùng chè hơn 12.000ha. Hàng chục nghìn nông dân nhờ cây chè đã có cuộc sống no đủ. Nhiều hộ đã giàu lên nhờ sản xuất, chế biến, kinh doanh sản phẩm chè. Để phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường, tỉnh Yên Bái đã định hướng phát triển, nâng cao chất lượng chè trong các năm tiếp theo. Toàn tỉnh Yên Bái hiện có 12.290ha chè, gồm: diện tích chè vùng thấp chiếm 78%, chè vùng cao chiếm 28%, với thương hiệu nổi tiếng là chè shan Suối Giàng. Cây chè đã góp phần quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo, giải quyết nguyên liệu cho các cơ sở chế biến của tỉnh, trong đó có 77 cơ sở chế biến quy mô công nghiệp; tổng giá trị thu nhập từ cây chè năm 2005 đạt hơn 120 tỷ đồng, nộp ngân sách năm 2005 đạt hơn 12 tỷ đồng. Yên Bái có diện tích trồng chè lớn, song chủ yếu là giống chè trung du, phục vụ chế biến chè đen xuất khẩu. Giá bán đạt khoảng 1USD/kg thành phẩm. 80% diện tích chè là của kinh tế hộ, phần lớn là theo phương pháp quảng canh, chưa bảo đảm về kỹ thuật chăm sóc, thu hái búp tươi, vì vậy năng suất chè chỉ đạt hơn 5 tấn/ha, giá trị mỗi ha chè đạt khoảng 11 triệu đồng/năm, thấp hơn nhiều so với các vùng chè khác. Đối với trồng chè vùng cao, mặc dù nhiều năm tỉnh bỏ ra hàng tỷ đồng đề đầu tư qua các dự án, song do nhận thức không đúng đắn của một bộ phận người dân và cả cán bộ quản lý, nên việc trồng, bảo vệ, chăm sóc chưa tốt. Có diện tích chè shan được khai nhiều lần trong nhiều năm để nhận tiền hỗ trợ trồng mới, làm ảnh hưởng đến quy hoạch và tiền vốn đầu tư. Mặt khác, việc quy hoạch về chế biến chè chưa phù hợp với vùng nguyên liệu. Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có 56 doanh nghiệp với 77 nhà máy, xưởng chế biến và kinh doanh chè; tổng công suất chế biến đạt hơn 600 tấn búp tươi/ngày (gấp hai lần so với khả năng cung cấp nguyên liệu); dẫn tới tình trạng tranh mua, tranh bán quyết liệt. Có cơ sở thu mua cả chè cắt liềm (không hái tay đạt tiêu chuẩn 1 tôm 2 lá); người trồng chè còn tùy tiện dùng thuốc kích thích tăng trưởng, thu hái không đúng lứa, vì thế ảnh hưởng lâu dài đến chất lượng cây chè. Thậm chí, có hơn 200 hộ tự chế bằng máy quay tay thủ công (bom sấy chè), phơi héo tại các trục đường giao thông… đã hạ thấp chất lượng thành phẩm chè của tỉnh. Điển hình là Cty Cổ phần Chè Trần Phú thuộc huyện Văn Chấn. Thực hiện quyết định 80 TTg, công ty đã ký hợp đồng với 1.543 hộ làm chè, diện tích 568,78ha, sản lượng ký 2.046 tấn chè búp tươi. Thực tế đã diễn ra ngược lại với hợp đồng đã ký; do cạnh tranh thu mua nguyên liệu, khi chè búp tươi được giá, hoặc do thu mua theo hợp đồng phải phân loại, trong khi bán ra ngoài thì chè hái liềm cũng được khách hàng chấp thuận, cho nên hầu hết các hộ “xé rào” bán ra ngoài mà không bán cho công ty. Còn khi khách hàng ngoài hợp đồng vì nhiều lý do không mua chè nữa, các hộ dân lại dồn bán cho công ty, gây tình trạng quá tải nguyên liệu. Năm 2003, công ty mua được 545 tấn; năm 2004 mua được 228 tấn (đạt 11%), năm 2005 chỉ mua được 212 tấn; do vậy năm 2004 công ty lỗ 1,4 tỷ đồng; năm 2005 nhờ cải tiến sản xuất, nên có lãi 478 triệu đồng. Tín hiệu đáng mừng là giống chè shan và các giống chè nhập như: Ô Long, Bát Tiên, Kim Tuyên, Thúy Ngọc… làm chè xanh xuất khẩu đều đem lại lợi nhuận và sản phẩm tiêu thụ trong nước rất được giá; chè Bát Tiên giá 100.000 đồng/kg, chè Ô Long loại 1 giá hơn 1 triệu đồng/kg, chè shan Suối Giàng giá 55 đồng/kg… cao gấp nhiều lần chè đen truyền thống. Để khai thác, phát huy tiềm năng lợi thế về cây chè đòi hỏi Yên Bái phải tổ chức lại ngành chè, nâng cao trách nhiệm của người nông dân với sản phẩm chè mình làm ra; gắn cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu, đưa sản phẩm chè trở thành sản phẩm xuất khẩu chủ lực và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Theo đó, tháng 4-2006, Tỉnh ủy Yên Bái đã ra Nghị quyết về hướng phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, chế biến, kinh doanh chè đến năm 2010, trong đó xác định: ổn định diện tích 13.000ha, tập trung đầu tư thâm canh đưa năng suất chè búp lên gấp hai lần hiện nay, phấn đấu đến 2010 có 20.000 tấn chè thành phẩm, trong đó chè xanh là 6.000 tấn; xây dựng được ít nhất hai sản phẩm chè có thương hiệu trên thị trường, xuất khẩu trực tiếp 50% sản lượng chè xuất ra. Để đạt được mục tiêu này, ngay trong vụ chè 2006 Yên Bái đã gieo ươm được 14,5 triệu bầu giống, gồm: 11,02 triệu bầu chè giống nhập nội; 2,2 triệu bầu chè shan giâm cành; 1,15 bầu giống chè lai LDP đủ trồng mới và thay thế 560ha. Tỉnh tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ phát triển cây chè, như: hỗ trợ giống chè (giống nhập nội, chè shan giâm cành mật độ cao), cho trổng mới, trồng cải tạo thay thế với mức 4 triệu đồng/ha theo quy hoạc; năm triệu đồng/ha với giống chè Kim Tuyên. Hỗ trợ 2 triệu đồng/ha để phá chè cũ trồng lại bằng giống chè nhập. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và nâng cấp cơ sở chế biến để sản xuất chè chất lượng tốt, giá trị cao, mang lại thu nhập cho người làm chè. Tìm hiểu việc trồng chè shan giâm cành, chúng tôi đến Lâm trường Văn Chấn, nơi thực hiện dự án từ năm 2002, và đến nay, Lâm trường đã trồng được 203ha. Trên đồi chè shan trồng mật độ 16.000 cây thay vì trồng 3.000 cây/ha được ba tuổi, Giám đốc Lâm trường Phạm Mạnh Đoài khẳng định: Cây chè shan phù hợp thổ nhưỡng vùng cao này, sau ba năm đầu tư, Lâm trường đã có gần 140ha chè tạo tán, nhưng do chưa có nhà máy chế biến, một số diện tích chè búp cho thu hoạch được bán với giá 2.600 đồng/kg. Hiện tại lâm trường đang mở rộng vùng nguyên liệu thêm 100ha chè shan, 200ha chè giống nhập nội, đảm bảo cung cấp 3.000 tấn nguyên liệu/năm. Bên cạnh đó. Lâm trường mở lớp đào tạo công nhân chế biến chè với 70 học viên là con em đồng bào Dao, Thái, Xa Phó trong vùng chuẩn bị nhân lực để đến năm 2007 khi có nhà máy chế biến chè xanh cao cấp xuất khẩu. Được biết, toàn bộ giống giâm cành ở đây được lấy từ 7 cây chè shan Suối Giàng do Viện chè chyển giao công nghệ, vửa bảo đảm giữ gien thuần chủng, vừa áp dụng công nghệ cao vào sản xuất đại trà cho vùng nguyên liệu. Nhằm nâng cao năng suất chè, Lâm trường đã đưa 13 máy bơm và đưa nguồn nước tự chảy tưới cho 60ha chè; chủ động về giống chè shan giâm cành cho Lâm trường Púng Luông và Trạm Tấu, để thời gian tới mỗi nơi này có 50ha chè shan trồng mật độ cao. Để cây chè phát triển theo hướng năng suất cao, chất lượng tốt, hướng tới thị trường thế giới, đồng chí Nguyễn Trung Lợi, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Yên Bái, cho biết: Tỉnh quy hoạch ổn định 13.000ha, trong đó phá bỏ chè giống cũ và trồng bằng giống mới 2.230ha; đưa hơn 5.000ha chè xanh vào kinh doanh; thâm canh để đạt năng suât 10tấn/ha gần 8.000ha chè trung du hiện có (trong đó một số diện tích cần thay thế trồng mới). Tỉnh cũng sắp xếp lại các cơ sở chế biến, chỉ để 46 cơ sở chế biến với tổng công suất đạt 600 tấn chè búp tươi/ngày; đổi mới công nghệ chế biến hiện đại theo hướng công nghệ CTC chè đen chất lượng cao hơn, hoặc các thiết bị chế biến lưỡng hệ (vừa chế biến chè đen, vừa chế biến chè xanh). Tin vui đến với ngành chè Yên Bái, sản phẩm chè Suối Giàng của tỉnh được Hiệp hội Chè Việt Nam tôn vinh thương hiệu quốc gia: Chè Việt. Đây là cơ hội cho sản phẩm chè Yên Bái quảng bá sản phẩm đến khách hàng trong nước và ngoài nước, tạo động lực cho cây chè Yên Bái phát triển, góp phần đưa tỉnh vững bước đi lên trong sự ngiệp đổi mới.
Hotline 1900 6613 Chat với chúng tôi qua Messenger Chat với chúng tôi qua Zalo Fanpage Bình Điền BFC Kênh Youtube Bình Điền BFC