PHÂN BÓN CHO VÙNG TÔM LÚA
VÙNG TRỒNG LÚA CÓ LÃI
CAO NHẤT
So với vùng chuyên canh
lúa, thì tỷ lệ lợi nhuận mà người nông dân trồng lúa thu được trên 1 đơn vị diện
tích /vụ ở vùng luân canh tôm lúa cao hơn 2 lần, ít nhất đạt 60%-70%. Lợi nhuận
cao do chi phí đầu tư rất thấp. Thống kê nhiều năm thấy, tỷ suất đầu tư về phân
bón vùng chuyên canh lúa chiếm 30%, thuốc BVTV chiếm 11%, nhưng với vùng tôm
lúa lượng phân bón + thuốc BVTV chỉ trong khoảng 10-15%.
Hiện có khoảng 100.000ha
lúa tôm, tập trung ở các tỉnh Sóc Trăng, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu. Mô hình
này thực chất không mới mẻ mà chỉ là cải tiến từ truyền thống. Trước đây người
dân vùng duyên hải này chỉ làm 1 vụ lúa mùa, khi thu hoạch xong thì dân để ruộng
không và ấu trùng tôm cá tự nhiên cứ thế theo nước mặn mà vào ruộng lớn dần
lên, đến cuối vụ thì thế nào cũng thu được 50-70kg tôm bạc. Sau đấy làm lúa 2 vụ,
ngăn mặn triệt để nên nguồn lợi tự nhiên này mới mất đi. Từ năm 1990-2000, com
tôm phát lên, nhà nhà nuôi tôm, nơi nơi nuôi tôm. Cuộc chiến mặn ngọt bắt đầu,
một số cống ngăn mặn bị dân bửa ra lấy nước mặn. Nước mặn vào thì “tôm tiêu đời,
lúa rời vuông”. Thế nhưng việc nuôi tôm tự phát, môi trường không được quản lý
tốt, hệ thống thủy lợi chưa kịp đầu tư đã khiến cho dịch bệnh trên tôm bùng
phát, nhiều ao nuôi phải treo. Tôm chết mà lúa cũng không trồng được…
Sau vụ tôm, thường là đầu
tháng 8 hàng năm khi lượng mưa đã dồi dào, nước ngọt từ thượng nguồn trên sông
Mekong đã đủ đuổi được mặn, thì người dân cũng sửa soạn ruộng chuẩn bị cho vụ
lúa. Công việc chính là dùng nước ngọt để rửa mặn và trang lại mặt ruộng cho bằng
phẳng để xuống giống lúa. Những ruộng nuôi được tôm phần lớn là những ruộng tốt,
tầng phù sa dày, không bị phèn. Trong quá trình nuôi tôm, thức ăn giàu dinh dưỡng
bị rơi vãi cộng với chất thải của tôm lắng đọng ở đáy ao đã trở thành nguồn thức
ăn dồi dào cho lúa. Môi trường lại được bón vôi, điều chỉnh pH thích hợp cho hệ
sinh thái động thực vật thủy sinh nên hầu như không có chất độc hại. Chính bởi
vậy mà phân bón “rất nhẹ”. Do cách ly một vụ, các đối tượng dịch, hại từ vụ trước
cũng không lưu cữu sang vụ sau được nên sâu rầy, bệnh hại trên lúa cũng không
đáng kể đã mang lại lợi nhuận cao nông dân.
DỄ NHƯNG CŨNG TỪNG THẤT
BẠI
Tuy lợi nhuận cao và kỹ
thuật canh tác không cao siêu phức tạp nhưng không phải chỗ nào cũng áp dụng được
mô hình này, bởi lẽ những ao đã được đào sâu 1,2 – 1,5m chuyên nuôi tôm thì
không thể sang lấp trồng lúa. Việc trang ao cũng phải đều, nếu không những rãnh
sâu được vét phục vụ cho việc nuôi tôm sẽ bị lốp. Một nguyên nhân thất bại
tương đối phổ biến là để cho mặn xâm nhập xuống tầng đất sâu nên không rửa sạch
được, Kỹ thuật nuôi tôm hiện nay coi phơi ao trong khoảng 2 tuần là điều kiện
tiên quyết để phân giải toàn bộ các chất hữu cơ và các chất độc hại khác. Tuy
nhiên nếu phơi quá đến nứt nẻ thì nước mặn sẽ xâm nhập xuống tầng đất sâu và
tích lũy dần dần đến vượt ngưỡng > 1% gây hại cho lúa.
Một rủi ro khác cũng thường
xảy ra, khi mới xuống giống, gặp hạn phải bơm nước nhưng nước sông trên sông lớn
và kinh rạch lại đang bị mặn cao hơn 1%o.
NHỮNG LƯU Ý KHI TRỒNG
LÚA
Muốn trồng được lúa thì
trước hết phải rửa mặn, nhưng rửa đến độ nào thì đạt? Việc này không thể theo cảm
tính mà phải đo độ mặn và độ pH. Phao đo độ mặn và hộp giấy quỳ là hết sức cần
thiết. Cách làm như sau: Sau khi rửa bằng nước ngọt được 3 lần, bơm kiệt nước rồi
khoét một lỗ nhỏ có kíck thước 0,4m x 0,4m sâu 0,2m, để hứng từ đất rịn ra, thử
bằng giấy quỳ, nếu pH trên 6,5 là đạt, nếu trong khoảng 5,5 – 6,5 cần bón 500 kg/ha
vôi (hoặc lân Đầu Trâu), nếu pH từ 4,5 – 5,5 cần bón 1.000 kg vôi/ha, nếu thấp
hơn nữa phải bón đến 2.000 vôi/ha. Cũng dùng nước đó thăm độ mặn, nếu độ mặn
còn cao hơn 1% thì cần phải tiếp tục rửa. Trước lúc rửa cần bón vôi (hoặc lân)
xới xáo lên. Phao thăm độ mặn được sử dụng nhiều khi bơm nước chống hạn, nếu độ
mặn dưới 1% mới bơm vào (thông thường khi hạn thì nước sông lớn mặn hơn nước
kinh rạch nên không bơm khi nước lớn mà bơm khi nước ròng).
Giống cho vùng này phần
lớn là các giống truyền thống chịu mặn như Nàng Quốc, Tài Nguyên, Một bụi đỏ.
Những giống này đều chịu mặn giỏi nhưng năng suất thấp nên có thể dùng các giống
lúa cải tiến chịu mặn khá như ST5, ST10, OM 6162, OM 6677, OM 5629, OM 5166, OM
5464…Với giống lúa truyền thống thì nên cấy ở tuổi mạ 40-50 ngày (vì chúng đều
thuộc loại quang chu kỳ), với giống cải tiến thì nên sạ. Dù khả năng chịu mặn của
các giống lúa khác nhau thường khác nhau nhưng chúng đều có 2 thời điểm quan trọng,
độ mặn không được vượt quá 1% là lúc xuống giống và lúc trổ.
Chỉ bón phân bằng phương
pháp “sửa”: Sau khi rửa mặn nên bón lót các loại phân có hàm lượng lân và canxi
cao để bộ rễ phát triển nhanh. Với bón thúc thì tất cả những ruộng tôm lúa đều
có những điều kiện khác nhau dinh dưỡng tồn dư trong đất, về độ mặn và độ pH
nên không thể có một công thức, quy trình bón phân chung. Kinh nghiệm bón phân
của nông dân vùng này là chỉ bón “sửa”, ví dụ khi thấy lúa tốt quá thì phải bón
kali, khi thấy sao chậm nở bụi thì dặm lân, thấy lúa vàng thì dặm đạm. Đã là
bón “sửa” thì không thể ruộng này giống ruộng kia, cùng trong một ruộng nhưng
chỗ này, chỗ kia cũng phải được điều chỉnh khác nhau. Trước đây công thức phân
được bà con vùng tôm lúa sử dụng nhiều và hiệu quả nhất là NPK Đầu Trâu
20.25.5, nay có thêm NPK TE Agrotain.
Tháng 10, 11 thường có
triều cường nên bà con phải chuẩn bị bờ bao chắc chắn.















