Xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha, hộ thu nhập 50 triệu đồng/năm – Mô hình kinh tế vườn đồi
Hữu Lũng (Lạng Sơn) là huyện thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung tương đối rõ nét. Huyện sớm đưa ra chủ trương phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại. Từ một huyện thuần nông, kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp đến nay, Hữu Lũng đã vươn lên thành huyện khá của tỉnh, kinh tế mỗi năm đều tăng trưởng, đời sống nhân dân từng bước nâng cao.
Đạt được những kết quả khả quan trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế là do Hữu Lũng đã biết khai thác thế mạnh về kinh tế vườn đồi, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy, phong trào cải tạo vườn tạp, lập mô hình trang trại ở Hữu Lũng có bước phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các xã trong huyện. Từ năm 1993 đến nay, huyện đã chuyển đổi hơn tám nghìn ha vườn đồi sang trồng các loại cây ăn quả. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn xóa bỏ vườn tạp, chuyển sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: vải thiều, na, nhãn, xoài… Tùy từng địa bàn, bình quân mỗi hộ nông dân trong huyện có từ 0,5 đến 5 ha vườn đồi để trồng rừng và các loại cây ăn quả. Nếu như năm 1996, Hữu Lũng mới chỉ có 20 trang trại, thì đến nay đã có hơn 70 mô hình trang trại lớn, nhỏ. Các loại mô hình này hết sức đa dạng, có quy mô tùy theo khả năng của từng hộ về: vốn đầu tư, đất đai và lao động. Mô hình kinh tế vườn đồi ở Hữu Lũng có thể chia ra làm hai loại hình chính: một là mô hình vườn đồi trồng cây ăn quả như: vải thiều, na, nhãn… Hai là: liên kết với các nông, lâm trường để nhận đất khoanh nuôi, bảo vệ và trồng rừng cao sản như: bạch đàn, cây mỡ, keo… sau nhiều năm triển khai mô hình kinh tế vườn đồi đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Từ chỗ chỉ xuất hiện một vài hộ trồng cây ăn quả, nhưng đến nay, Hữu Lũng đã trở thành vùng cây vải thiều. Năm 2000, Hữu Lũng mới có hơn 3.500 ha vải thiều, đến nay, đã lên tới 6.000 ha (đứng thứ hai sau vùng vải thiều Lục Ngạn, Bắc Giang), sản lượng hằng năm ước đạt 14 nghìn tấn quả. Cây vải thiều được trồng tập trung ở các xã: Minh Sơn, Sơn Hà, Đồng Tân, Đô Lương, thị trấn Mẹt… Nổi bật là xã Minh Hòa, 100% số hộ đều trồng vải như hộ Vi Văn Tệ, ở xóm Hẩu, trồng một ha, mỗi năm cho thu nhập từ 10 đến 12 triệu đồng tiền lãi từ vải thiều. Ngoài cây vải thiều, nhiều hộ gia đình ở Hữu Lũng còn phát triển đa dạng các loại cây ăn quả khác, có giá trị kinh tế cao như: na dai, nhãn, hồng, xoài… Tiêu biểu có hộ anh Nông Văn Lợi (thôn Đồng Ngầu, Cai Kinh) từ năm 1991 đến nay, gia đình đã khai thác vườn đồi trồng hơn 2.500 cây na, ngoài ra còn trồng nhãn, hồng, kết hợp chăn nuôi gia súc và trồng cây màu mỗi năm tổng thu nhập hơn 100 triệu đồng. Anh Lợi có cuộc sống ổn định còn giúp vốn 14 hộ trong thôn không lấy lãi để phát triển kinh tế vườn đồi. Hơn 100 hộ dân xã Đô Lương, Minh Sơn, còn liên kết, liên doanh với lâm trường Hữu Lũng I và II, trồng và chăm sóc quản lý, bảo vệ rừng. Mô hình kinh tế vườn đồi ở Hữu Lũng đang từng bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng đạt hiệu quả cao trên một đơn vị diện tích, bình quân đạt từ 25 đến 35 triệu đồng/ha. Hàng trăm mô hình kinh tế vườn đồi ở Hữu Lũng, đã khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, góp phần thực hiện công cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế vườn đồi ở Hữu Lũng còn nhiều bất cập, quy mô sản xuất chưa lớn, chưa xứng với tiềm năng, thế mạnh. Việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi còn nhỏ lẻ, manh mún, do phần đông nông dân còn thiếu vốn đầu tư, trình độ dân trí còn thấp, nên việc ứng dụng công nghệ cho khâu chế biến, bảo quản còn đơn giản; sản phẩm trên thị trường còn khó khăn… Vì vậy, việc chuyển đổi cây trồng gì, nuôi con gì vẫn là một vấn đề nan giải đối với các hộ nông dân và những nhà quản lý ở huyện Hữu Lũng. Nhưng với một huyện có nhiều tiềm năng và lợi thế, từ những mô hình, bài học kinh nghiệm, trong những năm tới Hữu Lũng sẽ tìm hướng đi lên, tạo bước chuyển mới cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn ở một huyện miền núi ổn định và vững chắc.