Vào WTO, nông dân được gì và mất gì? (14/06/2006)

Gia nhập WTO có nghĩa là tranh thủ cơ hội và chấp nhận thách thức. Đối với nông dân nước ta thì cơ hội và thách thức ấy gồm những gì? Cần biết rằng cư dân nông thôn hiện chiếm 73,7% cư dân và chiếm 67% lực lượng lao động của cả nước, với 13,2 triệu hộ trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp chiếm 21% GDP chung. Cơ hội: Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/năm). Nông sản, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ mới của các tập đoàn đa quốc gia sẽ được du nhập vào nước ta. Mức tăng trưởng xuất khậu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3% hàng năm, dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản sẽ đạt tới 9-19 tỷ USD vào năm 2019. Gia nhập WTO nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cũng như mọi thành phần xã hội khác người nông dân cũng sẽ được tự do lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và có chất lượng cao của toàn thế giới. Thách thức: Thách thức lớn nhất đối với nông nghiệp khi gia nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất lượng cao. Nông dân do thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Các nước giàu tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó. Hiện vẫn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo, đường, phân bón... Kinh tế nông thôn nước ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và công nghệ lạc hậu. Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mời gọi vốn FDI trong giai đoạn 2006-2010 (gần 26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối giữa khu vực công nghiệp - xây dựng với khu vực nông nghiệp - nông thôn. Trong danh mục này chỉ có 1 dự án dành cho nông nghiệp - chăn nuôi - lâm nghiệp và 4 dự án dành cho thủy sản. Sản xuất nông nghiệp - nông thôn thường gặp nhiều rủi ro do ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng. Hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn, theo Tổng cục thống kê là cách nhau khoảng 3,7 lần. Chính sách nông nghiệp nước ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng có dư thừa để xuất khẩu. Nay phải hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả cao và bền vững. Bây giờ phải lo hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông tin về thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng và đăng ký thương hiệu nông sản... Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu là: Chuyển giao tiến độ khoa học - công nghệ, nhất là các thành tựu về Công nghệ sinh học; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập chung xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Thật đáng lo ngại khi giá gạo xuất khẩu của ta là thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo (gạo Việt Nam- 218 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 278,33 USD, của Australia là 509,9USD). Theo thông báo của Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc (FAO) thì đang có 1 tỷ tấn nông sản ở châu Á sẵn sàng... đổ bộ vào Việt Nam sau khi nước ta gia nhập WTO(!). Nông dân nước ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả ngoài nước và trong nước. Các giống lúa của nước ta được mặt này thì mất mặt kia (cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng bệnh kém). Nông dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra theo giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi cam Mỹ, quýt Thái Lan sau cả tháng vẫn còn tươi nguyên. Chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều nước khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất tập chung, chưa có các quy trình kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ... Cho đến nay mà 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp. Sản xuất còn rất manh mún, nhỏ bé. Bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 2,5 lao động (phần lớn là lao động nữ), và chỉ có khoảng 0,7 ha canh tác. Cả nước đang có trên 70 triệu thửa ruộng riêng rẽ và manh mún. Theo điều tra của Bộ NN-PTNT thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả. Mặc dầu cả nước đã có khoảng 8.000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có khoảng 4.000 điểm có thể kết nối Internet và số nông dân được tiếp cận công nghệ thông tin còn rất ít, hơn nữa thông tin giúp nông dân tiếp cận được với thị trường cũng còn hết sức hạn chế. Đáng lưu tâm là trong khi Thái Lan chỉ có 260 nghìn ha trồng cây ăn quả (Việt Nam- 750 nghìn ha) nhưng hoa quả Thái Lan tràn lan khắp thế giới, kể cả thị trường Việt Nam(!).

Bảng giá nông sản

Hạt mắc ca70.000
Ca cao180.000
Cao su148.000
Gạo IR 50412.500
Cà phê125.600
Bơ sáp25.000
Sầu riêng Ri đẹp65.000
Điều40.000
Hồ tiêu119.000

[Xem tiếp]

Hỏi đáp

Bình Điền giải đáp các câu hỏi về việc sử dụng phân bón và phòng trừ sâu bệnh cho nhà nông.

Đặt câu hỏiXem câu hỏi

 

Tỷ giá Ngoại tệ

 


Top

TẢI ỨNG DỤNG CANH TÁC THÔNG MINH TẠI ĐÂY

Vào WTO, nông dân được gì và mất gì? (14/06/2006)

Gia nhập WTO có nghĩa là tranh thủ cơ hội và chấp nhận thách thức. Đối với nông dân nước ta thì cơ hội và thách thức ấy gồm những gì? Cần biết rằng cư dân nông thôn hiện chiếm 73,7% cư dân và chiếm 67% lực lượng lao động của cả nước, với 13,2 triệu hộ trong đó có 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp, nguồn lực tạo ra từ nông nghiệp chiếm 21% GDP chung. Cơ hội: Gia nhập WTO chúng ta có thể thâm nhập vào thị trường nông sản thế giới (có kim ngạch tới 548 tỷ USD/năm). Nông sản, thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ chịu mức hàng rào thuế quan thấp nhất, nhiều hàng rào phi thuế quan sẽ được bãi bỏ. Người nông dân nước ta cũng sẽ được lợi từ việc chuyển đổi các bí quyết công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Công nghệ mới của các tập đoàn đa quốc gia sẽ được du nhập vào nước ta. Mức tăng trưởng xuất khậu của nông nghiệp Việt Nam đã đạt mức 4,3% hàng năm, dự kiến kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản sẽ đạt tới 9-19 tỷ USD vào năm 2019. Gia nhập WTO nông dân sẽ được tiếp cận thị trường nhiều hơn do nắm bắt được nhu cầu của khách hàng trên thế giới. Nông dân sẽ biết được từng lộ trình cắt giảm thuế xuất khẩu, khi nào mặt hàng nào có thuế bằng 0% để định hướng phát triển theo tinh thần cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ đem lại cơ hội đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến nông sản, từ đó mà nâng cao được năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Dưới sức ép của luồng hàng nhập khẩu mạnh mẽ, các doanh nghiệp chế biến hàng nông lâm thủy sản buộc phải phấn đấu vươn lên để nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất. Cũng như mọi thành phần xã hội khác người nông dân cũng sẽ được tự do lựa chọn rất nhiều mặt hàng phong phú và có chất lượng cao của toàn thế giới. Thách thức: Thách thức lớn nhất đối với nông nghiệp khi gia nhập WTO là khả năng cạnh tranh khốc liệt của các hàng nông sản trong nước với hàng ngoại nhập có chất lượng cao. Nông dân do thực thi quyền sở hữu trí tuệ sẽ phải mua giống, vật tư, tư liệu sản xuất nông nghiệp với giá cao và do đó làm tăng chi phí sản xuất. Các nước giàu tiếp tục duy trì trợ cấp và các rào cản đối với thị trường nông sản khiến ngành nông nghiệp khó có thể sử dụng các biện pháp tự vệ đặc biệt để đối phó. Hiện vẫn tồn tại những hàng rào phi thương mại áp dụng đối với gạo, đường, phân bón... Kinh tế nông thôn nước ta phần lớn còn phát triển theo hướng tự phát, thiếu quy hoạch, rất bị động trong việc tiêu thụ sản phẩm. Các ngành nghề phi nông nghiệp sản xuất thiếu ổn định do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và công nghệ lạc hậu. Nhìn vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mời gọi vốn FDI trong giai đoạn 2006-2010 (gần 26 tỷ USD) ta thấy rất rõ sự mất cân đối giữa khu vực công nghiệp - xây dựng với khu vực nông nghiệp - nông thôn. Trong danh mục này chỉ có 1 dự án dành cho nông nghiệp - chăn nuôi - lâm nghiệp và 4 dự án dành cho thủy sản. Sản xuất nông nghiệp - nông thôn thường gặp nhiều rủi ro do ảnh hưởng của thời tiết, thiên tai và thiếu đảm bảo về điều kiện hạ tầng. Hơn nữa hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập và chưa hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn, theo Tổng cục thống kê là cách nhau khoảng 3,7 lần. Chính sách nông nghiệp nước ta trước đây là lo đủ ăn và cố gắng có dư thừa để xuất khẩu. Nay phải hướng sang giai đoạn phát triển có hiệu quả cao và bền vững. Bây giờ phải lo hướng dẫn nông dân tiếp cận được các thông tin về thị trường, đàm phán thương mại, kiểm tra chất lượng và đăng ký thương hiệu nông sản... Kế hoạch phát triển nông nghiệp phải hướng tới ba lĩnh vực chủ yếu là: Chuyển giao tiến độ khoa học - công nghệ, nhất là các thành tựu về Công nghệ sinh học; tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho kinh tế nông thôn; tập chung xây dựng các cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp và nông thôn. Thật đáng lo ngại khi giá gạo xuất khẩu của ta là thấp nhất trong 6 nước xuất khẩu gạo (gạo Việt Nam- 218 USD/tấn trong khi của Thái Lan là 278,33 USD, của Australia là 509,9USD). Theo thông báo của Tổ chức Lương nông của Liên Hiệp Quốc (FAO) thì đang có 1 tỷ tấn nông sản ở châu Á sẵn sàng... đổ bộ vào Việt Nam sau khi nước ta gia nhập WTO(!). Nông dân nước ta sẽ phải cạnh tranh quyết liệt trên thị trường cả ngoài nước và trong nước. Các giống lúa của nước ta được mặt này thì mất mặt kia (cao sản thì dễ đổ, chất lượng gạo ngon thì lép nhiều và kháng bệnh kém). Nông dân không mặn mà với giống mới vì phải mua với giá cao trong khi vẫn bán ra theo giá bình thường. Công nghệ sau thu hoạch của ta còn rất bất cập, trong khi cam Mỹ, quýt Thái Lan sau cả tháng vẫn còn tươi nguyên. Chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm nông nghiệp chuẩn mực như nhiều nước khác vì chưa có nền sản xuất lớn, chưa sản xuất tập chung, chưa có các quy trình kỹ thuật chuẩn, chưa kết nối được giữa sản xuất và tiêu thụ... Cho đến nay mà 90% sản phẩm nông nghiệp còn được bán ra ở dạng thô và 60% sản phẩm bị bán ép với giá thấp. Sản xuất còn rất manh mún, nhỏ bé. Bình quân mỗi hộ nông dân chỉ có 2,5 lao động (phần lớn là lao động nữ), và chỉ có khoảng 0,7 ha canh tác. Cả nước đang có trên 70 triệu thửa ruộng riêng rẽ và manh mún. Theo điều tra của Bộ NN-PTNT thì chỉ có khoảng 25% nông dân tiếp cận được với các thông tin thị trường trong khi 75% nông dân không biết gì cả. Mặc dầu cả nước đã có khoảng 8.000 điểm bưu điện văn hóa xã nhưng chỉ có khoảng 4.000 điểm có thể kết nối Internet và số nông dân được tiếp cận công nghệ thông tin còn rất ít, hơn nữa thông tin giúp nông dân tiếp cận được với thị trường cũng còn hết sức hạn chế. Đáng lưu tâm là trong khi Thái Lan chỉ có 260 nghìn ha trồng cây ăn quả (Việt Nam- 750 nghìn ha) nhưng hoa quả Thái Lan tràn lan khắp thế giới, kể cả thị trường Việt Nam(!).
Hotline 1900 6613 Chat với chúng tôi qua Messenger Chat với chúng tôi qua Zalo Fanpage Bình Điền BFC Kênh Youtube Bình Điền BFC