Bệnh Tungro virus trên lúa
Đây là một trong 3 loại virus gây bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, do loại rầy xanh và rầy bông truyền bệnh.
Triệu chứng
Cây bị bệnh lá lúa sẽ biến đổi màu và hạt không dày. Sự biến đổi màu lá bắt đầu từ chóp và lan rộng ra phía mép, xuống phần thấp hơn của lá lúa.
Các lá bị bệnh có các đốm hoặc các vạch và cây bị lùn. Cây giảm sự đẻ nhánh, làm chậm việc trổ bông và dẫn đến chậm trễ sự chín.
Gié lúa nhỏ và không thoát hoàn toàn. Hầu hết các gié bị lép (khô) và có màu nâu tối.
Yếu tố phát triển bệnh
Có sự hiện diện của nguồn virus và sự hiện diện của vec-to truyền bệnh.
Tùy thuộc vào tuổi cây và cây lúa nhiễm bệnh (không kháng), bệnh có thể xuất hiện ở tất cả các giai đoạn của cây lúa, đặc biệt là giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng.
Yếu tố chỉ thị rõ nhất là có sự hiện diện của quần thể rầy xanh (Nephotettix spp.) là biểu hiện của bệnh.
Sự chuyển vàng của cây lá rất dễ nhầm với các triệu chứng: rối loạn sinh lý như là sự thiếu đạm hoặc kẽm và rối loạn do thiếu nước; côn trùng gây hại như là sâu đục thân, các loại rầy, chuột phá hoại và các bệnh như vàng lùn lúa cỏ, bệnh vàng cam.
Tác nhân gây hại
Bệnh Tungro được truyền bởi rầy xanh và rầy bông. Bệnh này là sự phối hợp giữa Tungro baccili-form virus (RTBV) và Tungro spherical virus (RTSV). RTBV không thể truyền bởi rầy trừ khi có sự hiện diện của RTSV. Rầy xanh và rầy bông có thể tiếp nhận virus từ tất cả các bộ phận cả cây lúa bị bệnh. Sau khi nhận được virus, vec-to (rầy) có thể lập tức truyền ngay bệnh Tungro nầy đến cây lúa.
Cơ chế gây bệnh
Rầy hút virus do chích hút nhựa cây lúa trong thời gian 8 giờ, và có thể truyền bệnh ngay sau khi chích hút sang cây khỏe.
Virus không thể duy trì trong cơ thể rầy. Sau khi ăn trên cây bệnh, côn trùng có thể truyền virus trong vòng 5 ngày và lâu nhất là một tuần. Rầy chỉ có thể tái gây nhiễm sau khi tiếp nhận lại virus do ăn trên cây lúa bị bệnh. Đây là những điểm khác với bệnh lùn lúa cỏ và lùn xoắn lá.
Biện pháp kiểm soát bệnh
Có 3 yếu tố hạn chế việc quản lý bệnh Tungro: sự không xuất hiện triệu chứng bệnh giai đoạn phát triển sớm của bệnh; thiếu giống kháng bệnh Tungro virus và sự thích nghi của vec-to trên giống kháng rầy xanh.
Trồng giống kháng đối với bệnh Tungro virus là phương pháp kinh tế nhất trong quản lý bệnh.
Giữa các phương pháp canh tác, việc điều chỉnh thời gian cấy sạ được khuyến cáo cùng với việc bỏ hóa ít nhất một tháng hoặc luân canh với hoa màu khác nhằm loại trừ cây ký chủ, virus và rầy xanh.
Cày bừa đồng ruộng kỹ để loại trừ gốc rạ ngay sau khi thu hoạch để loại bỏ ký chủ của bệnh Tungro cũng được áp dụng.
Quản lý rầy xanh
Có nhiều phương pháp phòng trừ sinh học: dùng ong bắp cày ký sinh trên trứng, bọ mired cũng ăn trứng rầy, các loài ruồi pipunculid và tuyến trùng ký sinh trên cả ấu trùng và thành trùng, loài bọ veliid sống dưới nước, ruồi damsel, chuồn chuồn, nhện... tấn công rầy xanh; loại Pandora delphacis tấn công ấu trùng và thành trùng của rầy xanh.
Trong những vùng chưa nhiễm bệnh Tungro, không cần sử dụng thuốc trừ sâu đối với rầy xanh. Việc phun thuốc nên tránh vì thường không ngăn chặn hay làm giảm được được sự nhiễm bệnh Tungro. Luân canh cây lúa với cây họ đậu hoặc hoa màu khác hay nuôi cá, tôm để giảm nguồn phát triển của rầy xanh. Hoặc dùng các giống lúa có tính kháng với rầy xanh, rầy bông.