Để vụ lúa Đông Xuân 2021-2022 đạt thắng lợi mỹ mãn, nhà nông cần làm gì?
Với nhà nông thì câu phương ngôn “nhất nước nhì phân, tam cần tứ giống” đã được coi là những điều kiện thiết yếu để đảm bảo vụ lúa thắng lợi. Riêng tại đồng bằng sông Cửu Long, nhìn mực nước lũ mang nặng phù sa tràn về trên đồng ruộng là bà con có thể đoán biết vụ Đông Xuân tới sẽ thu được bao nhiêu dạ lúa trên phần đất của mình, đồng thời cũng dự kiến tình hình sâu bệnh sẽ diễn ra để có biện pháp đối phó nhằm đạt hiệu quả tốt.
Nhưng năm nay, theo dự báo của đài khí tượng thủy văn mực nước lũ về chậm hơn và đỉnh lũ cũng thấp hơn trung bình nhiều năm. Nhìn thực tế mực nước trên đồng vào những ngày giữa tháng 10 dương lịch thì cũng chỉ tầm mức của năm 2020. Như vậy bà con sẽ phải chuẩn bị kỹ các hợp phần còn lại về phân bón, giống và chăm sóc phải tốt hơn, kỹ hơn để có vụ lúa Đông Xuân đạt thắng lợi mỹ mãn.
Để đạt được mục tiêu đề ra, tác giả xin giới thiệu kết quả thực hiện gói kỹ thuật thu được từ chương trình canh tác lúa thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu do Công ty CP Phân Bón Bình Điền thực hiện tại 8 tỉnh trong vụ Đông Xuân năm 2020-2021 để bà con tham khảo. Trong vụ Đông Xuân vừa qua có 8 tỉnh từ Cà Mau trở lên Hậu Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long cùng tham gia. Mỗi tỉnh có 4 mô hình được Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cùng với Trung tâm Khuyến nông các tỉnh và Công ty CP Phân bón Bình Điền phối hợp tổ chức. Có thể có bà con hỏi đã có nhiều vụ thực nghiệm chương trình canh tác thông minh trên cây lúa, tại sao lần này chỉ giới thiệu kinh nghiệm với vụ Đông Xuân vừa qua. Đơn giản là về điều kiện khí hậu, thủy văn thì 2 vụ này cũng có tình hình tương tự nhau, phần nhất nước đã không thuận lợi thì phải cải thiện các phần còn lại thì mới đạt kết quả tốt được. Mục tiêu chính của chương trình là so sánh các biện pháp kỹ thuật áp dụng trong mô hình với phương pháp canh tác mà bà con đang sử dụng xem hiệu quả kinh tế mang lại hơn, kém ra sao so với yêu cầu của một nền sản xuất bền vững bao gồm: Sử dụng vật tư hợp lý, tiết kiệm, nhưng năng suất và hiệu quả kinh tế cao, ổn định môi trường phải bảo đảm trong sạch, sản phẩm nông nghiệp tạo ra phải phù hợp với tiêu chuẩn của khách hàng khác nhau trên thế giới và cả trong nước. Dưới đây là tóm tắt các kết quả thu được.
Tính chung cho cả 8 tỉnh có 32 hộ tham gia thành 32 mô hình. Vật tư nông nghiệp và các thiết bị đo độ mặn, độ phèn hay cảm biến theo dõi mực nước trong ruộng cũng như kỹ thuật quản lý nước, sâu bệnh và chăm sóc tổng hợp đều do Công ty CP Phân bón Bình Điền chu cấp và hướng dẫn. Kết quả cho thấy: Về lượng giống gieo sạ bình quân 32 mô hình là 78kg/ha, đối chứng làm theo kỹ thuật của bà con sạ là 115kg/ha, cao hơn trong mô hình 36kg (chiếm 48,5%). Về phân bón: mô hình sử dụng loại phân Đầu Trâu Mặn Phèn và 2 chủng loại NPK chuyên dùng cho lúa là Đầu Trâu TEA1 và Đầu Trâu TEA2, so sánh với nền phân bà con tự chọn thì tổng lượng NPK làm theo kỹ thuật của bà con bình quân 32 địa điểm cao hơn lượng NPK trong mô hình là 48kg (hay 25%), đặc biệt là liều lượng N ruộng đối chứng cao hơn ruộng trong mô hình là 18,1kg N (chiếm 21%) hay 39kg Ure/ha. Nhưng bình quân năng suất lúa của cả 32 hộ làm trong mô hình vẫn cao hơn đối chứng là 370kg thóc/ha (4,7%), tiền lời mang lại cao hơn đối chứng là 3,395 triệu đồng/ha. Các tỉnh có tiền lời mang lại cao là Cà Mau 5,666 triệu đồng, Cần Thơ 7,515 triệu đồng, Kiên Giang 5,320 triệu đồng và Trà vinh là 6,655 triệu đồng/ha. Tỉnh có tiền lời thấp nhất là Long An chỉ có 315.000 đồng/ha và năng suất là cũng khá cao đến 8.35 tấn/ha (Lý do chính là sử dụng quy trình của lúa tẻ áp dụng cho lúa nếp 4625 là chưa phù hợp, đây là điều mà ban cố vấn sẽ nghiên cứu để có cách áp dụng đối với lúa nếp khi áp dụng quy trình này). Về mô hình, khi phân tích chi tiết cho thấy các ruộng cho năng suất cao, lời nhiều là do áp dụng đúng kỹ thuật của chương trình, bao gồm lượng giống sạ. Các hộ sạ 50kg/ha như ở Hậu Giang hay sạ 60 - 70kg như Cần Thơ, Kiên Giang và đặc biệt là Vĩnh Long, cả 4 hộ đều sạ lượng giống thấp, và bón tiết kiệm phân Đầu Trâu đều cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Ví dụ, ở Vĩnh Long có hộ ông Nguyễn Văn Chiến trong mô hình cấy tay tốn 40 kg/ha, đối chứng 50kg/ha mà năng suất và hiệu quả lại cao hơn so với ruộng sạ 160kg/ha của hộ ông Trần Văn Út cũng trong điều kiện đất và nước khá giống nhau. Phân tích các yếu tố tạo năng suất và hiệu quả cao là sạ lượng giống theo quy trình, sử dụng lượng phân Đầu Trâu hợp lý, đã làm cho cây lúa sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh nên phun xịt thuốc giảm đến 3 lần và tiết kiệm tiền thuốc được 910.000 đ/ha, cây lúa sử dụng năng lượng mặt trời có hiệu quả cao, dẫn đến năng suất cao, tiền lời cao, mang lại hiệu quả cao, đặc biệt môi trường đất nước được cải thiện, độ chua giảm, pH được nâng cao. Tâm lý của bà con là sạ dày để có nhiều bông làm cho năng suất cao, đấy là quan niệm sai lầm. Ví dụ, cũng ở Vĩnh Long, bình quân trong mô hình sạ 70kg/ha, ngoài mô hình sạ 115kg (có hộ sạ 160kg), thử so sánh hơn kém giữa mô hình và đối chứng theo các số liệu trong bảng dưới:
Tóm lại: Nếu bà con mạnh dạn giảm giống, áp dụng các kỹ thuật kèm theo đúng với phương pháp canh tác thông minh thì bà con giảm được chi phí sản xuất, tăng được lợi nhuận.
GS. TS Mai Văn Quyền