Các yếu tố phát triển rầy nâu (22/12/2006)
Rầy nâu là loại côn trùng chích hút nhựa và truyền bệnh hại lúa; là đối tượng dịch hại nguy hiểm trên đồng ruộng. Hiện nay rầy nâu đang bộc phát và truyền các bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá, gây thành dịch tại nhiều tỉnh ở Nam bộ. Việc hiểu tường tận về chúng sẽ giúp cho việc áp dụng các biện pháp phòng trị đặc hiệu hơn.
Các yếu tố phát triển rầy
Các yếu tố để rầy gia tăng mật số được ghi nhận: Yếu tố giảm thiên địch: Trong vụ sản xuất nông dân thường có tập quán phun thuốc ngừa sâu hại bằng các loại thuốc có phổ tác động rộng, giết chết một số lượng lớn thiên địch trên đồng ruộng. Thiên địch của rầy nâu có rất nhiều trong tự nhiên như: Nhện Lycosa, bọ rùa, bọ ba khoang, bọt xít nước, bọ xít mù xanh, chuồn chuồn kim, một số loài ong và nấm ký sinh trên trứng, ấu trùng và rầy trưởng thành… Số lượng thiên địch này nếu còn tồn tại sẽ khống chế sự gia tăng mật số của rầy rất hữu hiệu.
Yếu tố dinh dưỡng đầy đủ: Trong giai đoạn lúa còn nhỏ, khoảng thời gian 20 ngày sau sạ, nguồn dinh dưỡng cho rầy trong lúa còn thấp nên lứa rầy non ban đầu ở mật độ thấp có thể phát triển được nhưng rất chậm. Giai đoạn lúa có đòng, trổ và ngậm sữa, rầy có điều kiện phát triển nhanh vì trong cây lúa luôn sẵn có nguồn dinh dưỡng cao nhất ở tất cả các vị trí trên thân và lá. Khi lúa chín, ngả sang vàng úa, rầy trưởng thành sẽ chuyển đi nơi khác, còn rầy non sẽ chết do không còn thức ăn.
Yếu tố nguồn giống: Nếu giống gieo sạ là giống kháng rầy thì khả năng rầy phát triển sẽ thấp vì thức ăn không phù hợp (lúa mang gen kháng rầy), còn ngược lại nếu là giống nhiễm thì mật số rầy sẽ gia tăng nhanh ngay từ thời kỳ đầu khi lúa còn tuổi nhỏ.
Quá trình phát triển
Ở giai đoạn lúa sinh trưởng (từ 15-25 ngày sau sạ) là giai đoạn rầy trưởng thành cánh dài từ nơi khác di chuyển đến đẻ trứng tạo thế hệ rầy non thứ nhất. Nếu gặp điều kiện thuận lợi như: Thời tiết thích hợp, nguồn thức ăn sẵn có và tránh được thiên địch giết hại, rầy nâu nhanh chóng tích lũy số lượng và tạo thế hệ rầy non thứ 2 trong khoảng thời gian từ 45-55 ngày sau sạ (tức là giai đoạn lúa làm đòng) và sau đó vào giai đoạn lúa trổ và ngậm sữa (từ 75-80 ngày sau sạ) rầy sẽ tạo tiếp một thế hệ thứ 3 này. Ngoài thế hệ thứ 3 này, giai đoạn lúa đang trổ và ngậm sữa có khả năng còn nhận tiếp lứa rầy trưởng thành cánh dài ở các trà lúa chín sớm đã thu hoạch di trú đến, sinh sôi nảy nở làm gia tăng mật số nhanh chóng. Cá biệt trên đồng ruộng ở một điểm khảo sát có khả năng cho mật số rầy từ 10-15 con trên 1 thân lúa. Đây là mật số vượt ngưỡng phát sinh cháy rầy.
Biện pháp chung
Cắt đứt mọi điều kiện thuận lợi để rầy phát triển bằng các biện pháp: Vệ sinh đồng ruộng, không để lúa chết và cỏ dại tồn tại trước khi gieo sạ; Không dùng giống nhiễm; Xử lý giống bằng thuốc hóa học, áp dụng quy trình sản xuất IPM (quản lý dịch hại tổng hợp): Hạn chế phun thuốc phòng trừ sâu hại bằng các loại thuốc phòng trừ sâu hại tác động rộng để bảo vệ thiên địch trong thời kỳ lúa sinh trưởng (từ gieo sạ đến 40 ngày sau sạ) là những việc làm rất cần thiết. Biện pháp chung áp dụng vào 2 thời kỳ:
- Giai đoạn trước khi gieo sạ đến 20 ngày sau sạ: Chủ động xử lý giống ngay từ giai đoạn ngâm ủ bằng các loại thuốc hóa học như Actara 25WG hoặc Cruiser - Plus 312.5 FS thì sau khi mọc, cây lúa sẽ được bảo vệ, trong thân và lá đã có sẵn một lượng thuốc (hoạt chất Thiamethoxam) sẽ ngăn ngừa được sự tấn công của rầy ngay từ đầu (rầy trưởng thành cánh dài sẽ không có điều kiện để tạo thế hệ rầy non). Ngoài ra trong thân cây lúa còn có 1 lượng thuốc khác sẽ phòng chống các loại bệnh hại lúa mà tác nhân là các loài nấm và vi nấm. Thuốc hiệu lực có thể kéo dài đến 20 ngày sau sạ. Liều lượng và cách sử dụng đối với Cruiser Plus 312.5 FS như sau: 10ml thuốc dùng cho 50kg giống. Thuốc hòa từ 0,5-1 lít nước và phun ngót đều cho 50kg giống (đã được ngâm ủ, nẩy mầm) và ủ thêm từ 10-12 giờ trước khi gieo sạ; Còn đối với Actara 25WG: 1 gói (gr) dùng cho 10kg giống. Thuốc hòa từ 0,5-1 lít ngót trộn đều cho 10kg giống đã được ngâm ủ, nẩy mầm và ủ thêm 6 giờ trước khi gieo sạ.
- Giai đoạn từ 20-40 ngày sau sạ: Bà con nông dân nên áp dụng phương pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên đồng ruộng. Hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc phun ngừa sâu hại triệt để bảo vệ thiên địch. Thường xuyên thăm đồng để phát hiện sớm rầy trưởng thành cánh dài. Theo dõi và quản lý mật số rầy này bằng phương pháp xác định mật số tại nhiều điểm khảo sát trên ruộng (mỗi sào ruộng nên chọn từ 5-10 điểm). Giai đoạn này rầy gây hại không đáng kể vì số lượng còn thấp, nhưng lại có khả năng tích lũy, nhân số lượng để gây cháy rầy khi lúa được 40-45 ngày tuổi trở đi. Tuy nhiên, nếu trong vùng sản xuất đã có cây lúa hoặc cỏ dại mang bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá thì sự xuất hiện của rầy trưởng thành cánh dài ở giai đoạn này cũng là mối nguy hiểm cần phải đặt vấn đề trừ diệt ngay.
Biện pháp hóa học
Mục đích của biện pháp chung là để ngăn ngừa triệt để sự tấn công của rầy. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp và hoàn cảnh ở đồng ruộng, chúng ta buộc phải áp dụng biện pháp hóa học để dập tắt sự xuất hiện của rầy, một khi đến ngày sử dụng thuốc.