Một số biện pháp thâm canh cần lưu ý trong thời điểm dịch rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá (28/11/2

Tại Hội nghị bàn biện pháp phòng trừ rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa tổ chức tại TP. HCM vào ngày 4/11/2006 cho biết diện tích lúa bị nhiễm rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá ở các tỉnh, thành phía Nam ước khỏang 500 nghìn ha, làm giảm sản lượng khỏang 825 nghìn tấn lúa, thiệt hại cho bà con nông dân khỏang 2 nghìn tỷ đồng. Trước nguy cơ dịch bùng phát đang gia tăng, một lọat các biện pháp được khuyến cáo để dập dịch như: Cày bỏ ngay số diện tích lúa bị nhiễm bệnh, không trồng giống lúa nhiễm rầy, gieo sạ đồng loạt, giãn vụ hoặc bỏ hẳn lúa vụ 3 kém hiệu quả để cắt nguồn bệnh lây lan, bón phân cân đối tạo sức đề kháng cho cây lúa, không bón thừa đạm, v.v... Để giúp bạn đọc hiểu thêm về rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa tại thời điểm hiện nay, tác giả bài viết này cố gắng đưa những thông tin mới nhất nghiên cứu về rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá của Viện lúa ĐBSCL và một số nhà khoa học quan tâm đến rầy nâu vàng lùn và lùn xoắn lá. Và đề xuất một số giải pháp cần thiết trong thâm canh tăng năng suất lúa tại thời điểm dịch rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá đang lây lan. 1. Nhận diện rầy nâu và bệnh vàng lùn hiện nay: Độc tính của rầy nâu tăng cao: Báo cáo mới đây của Viện lúa ĐBSCL cho biết đa phần các giống lúa cao sản hiện nay đều có tính kháng trung bình đến hơi nhiễm. Những giống lúa được chọn tạo theo hướng kháng trung bình sẽ chỉ phát huy tác dụng nếu mật độ rầy nâu thấp, khỏang dưới 1000 com/m2 (2-3 con/tép). Nếu mật số rầy nâu 1000-3000 com/m2, giống trở nên trong tình trạng báo động, và mật số cao hơn 3000 con/m2, giống trở nên nhiễm, bị cháy rầy. Hiện tượng này đã xẩy ra trong vụ ĐX2005-06. Hơn thế nữa, quần thể rầy nâu thay đổi về bản chất di truyền, thể hiện qua độc tính gây hại của nó trên bộ giống chuẩn kháng. Tiến sĩ Lương Minh Châu đã ghi nhận Ptb33 là giống lúa kháng rầy nâu được chọn làm giống chuẩn kháng cho công tác nghiên cứu, biểu hiện tính kháng cấp 0, cấp 1 liên tục suốt 20 năm qua ở ĐBSCL; Nhưng trong đợt bộc phát rầy nâu lần này, nó biểu hiện cấp 5, chứng tỏ độc tính rầy nâu đã thay đổi. Rầy nâu có độc tính cao hơn. Trong tình hình rầy nâu thay đổi độc tính cao như vậy, các giống lúa như OM1490, OM2514, OM2517, OM2717, OM2718 là những giống năng suất cao phẩm chất tốt, hơi kháng rầy nâu thì hiện nay đã thể hiện nhiễm rầy và được khuyến cáo không nên trồng trong giai đọan rầy nâu bùng phát. Các giống lúa đặc sản, gạo thơm như VĐ20, Jasmine85, ST3, OM3536 và các giống lúa nếp đều là những giống lúa nhiễm rầy, đang bị thiệt hại rất nặng trong đợt dịch này. Một số giống có khả năng kháng rầy tốt, đã đứng vững trong đợt dịch vừa qua là: IR64, VNĐ95-20, OMCS2000, OM4495, OM4498, IR50404 và OM576. Bệnh vàng lùn là bệnh mới, chưa có thuốc chữa trị: Các khảo sát đánh giá mới đây của các nhà khoa học Viện lúa Quốc tế IRRI và Viện lúa ĐBSCL cho rằng bệnh vàng lùn là bệnh mới, tác nhân gây bệnh gồm 3 lọai virut là Lùn lúa cỏ, Lùn xoắn lá do rầy nâu lây truyền và Tungro do rầy xanh lây truyền. Trên ruộng lúa bị vàng lùn đều thấy xuất hiện cả 3 lọai virut nêu trên với tỷ lệ có thể khác nhau. Một số mẫu bệnh phẩm thu thập tại Tiền Giang và An Giang vào tháng 3 năm 2006 vừa qua được gởi sang Viện lúa Quốc tế IRRI phân tích cho kết quả 90% là Lùn lúa cỏ, 63% là Lùn xoắn lá và 7% là Tungro. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh này. Một số giống lúa có khả năng chống chịu tốt bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá là: OMCS2000, OM576, AS996, OM4495 và OM4498. 2. Một số biện pháp thâm canh cần lưu ý trong thời điểm dịch bùng phát: Do rầy nâu bùng phát từ vụ ĐX2005-06 nối tiếp sang HT & TĐ2006, đến thời điểm hiện nay đã trở nên hết sức nghiêm trọng. Theo báo cáo gần đây nhất có tới 80% rầy nâu hiện nay có mang mần bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Như vậy khả năng lây truyền bệnh là rất lớn. Cây lúa bị bệnh không phát triển được, lụi dần và chết. Nếu ruộng lúa bị nhiễm vàng lùn 30% trở lên là phải cày bỏ, coi như mất trắng. Yêu cầu hiện nay còn cao hơn, mức độ nhiễm vàng lùn và lùn xoắn lá tới 10% là cày bỏ để tiêu diệt mầm bệnh lây lan, phải chờ 15 ngày sau đó mới được gieo sạ lại. Trước tình hình nghiêm trọng như hiện nay, chúng tôi xin lưu ý một số biện pháp thâm canh cần điều chỉnh cho phù hợp trong thời điểm dịch bùng phát. Lựa chọn giống gieo sạ: Không nên gieo sạ các giống nhiễm rầy trong giai đọan dịch bùng phát. Các giống lúa có tính kháng rầy nâu khá như nêu ở trên cần được nhân rộng và cung cấp cho bà con trong vùng sử dụng để hạn chế thiệt hại do rầy nâu. Chất lượng hạt giống cũng cần hết sức chú ý. Hiện vẫn còn rất nhiều bà con sử dụng giống chất lượng kém, lẫn tạp nhiều. Giống chất lượng kém có sức đề kháng rất yếu và lẫn tạp nhiều rất dễ nhiễm rầy nâu. Bà con nên sử dụng giống xác nhận tại các cơ sở sản xuất giống hoặc đổi lúa giống từ các nông dân cộng tác viên sản xuất giống tại địa phương. Mật độ gieo sạ: Bà con thường áp dụng sạ dày, 200-250 kg/ha. Sạ dày như vậy làm cho ruộng lúa khép tán rất nhanh, ánh sáng xuyên qua tán bị hạn chế nhiều và ẩm độ trong ruộng lúa rất cao ngay từ đầu vụ. Những ruộng lúa như vậy sẽ là nơi trú ngụ lý tưởng của rầy nâu, vì thức ăn nhiều, độ ẩm cao, thích hợp cho rầy nâu phát triển. Vì vậy trong thời gian này, áp dụng sạ thưa là hết sức cần thiết. Không nên sạ dày quá 150 kg/ha; Tốt nhất là sạ theo hàng bằng công cụ sạ hàng với lượng giống khỏang 70-100 kg/ha. Sạ thưa vừa tiết kiện hạt giống, vừa tạo cho ruộng lúa thông thóang, ánh sáng xuyên qua tán lá dễ dàng, cho phép nhận diện rầy nâu nhanh chóng và diệt trừ hiệu quả hơn. Kinh nghiệm sạ thưa trong mấy năm qua đều cho thấy sâu bệnh ít hơn, năng suất cao hơn, và thu nhập của bà con được tăng cao. Điều chỉnh phân bón: Trong điều kiện không có dịch bệnh xẩy ra, liều lượng phân bón được khuyến cáo áp dụng tại ĐBSCL như trình bày trong bảng 1. Tuy nhiên, tùy theo tình hình đất đai, điều kiện canh tác của mỗi địa phương mà lượng phân bón được điều chỉnh cho phù hợp hơn với địa phương đó. Nhưng trong tình hình dịch bệnh đang xẩy ra nghiêm trọng như hiện nay, lượng phân bón cần phải điều chỉnh cho phù hợp để hạn chế tối đa mức độ thiệt hại cho ruộng lúa. Bảng 1. Lượng phân khuyến cáo cho lúa cao sản tại ĐBSCL (theo Viện lúa ĐBSCL) Trong 3 loại phân bón đạm, lân, kali thì phân đạm có tác dụng rất nhanh và bay hơi mất mát cũng rất nhanh. Sau khi bón đạm khoảng 3-5 ngày là đã thấy thể hiện tác dụng rõ rệt và sau 10-15 ngày tác dụng của phân đạm cũng không còn nữa. Bón đạm sớm và bón nhiều rất bất lợi trong thời gian có dịch rầy nâu. Hiện nay vẫn còn khá nhiều trường hợp bà con nông dân duy trì tập quán bón đạm urê đợt đầu ngay sau khi sạ được 1 tuần, mục đích là làm cho nước trong, không bị váng mặt và thúc cho cây lúa vọt lên nhanh chóng để nâng mực nước lên cao, khống chế cỏ dại. Đến tuần lễ thứ 2 mới bón NPK. Duy trì tập quán này trong thời gian dịch bệnh như hiện nay là rất nguy hiểm. Bởi vì cây lúa non được thúc phân urê phát triển xanh mướt, rất hấp dẫn cho rầy nâu đáp xuống và đó là hiểm họa. Hơn nữa khi cây lúa còn nhỏ, khả năng sử dụng phân đạm rất ít, lượng đạm bón vào cây không sử dụng hết sẽ bốc hơi bay mất, rất lãng phí. Trong khi đó lân và kali rất cần để cho cây lúa phát triển nhanh bộ rễ non ngay từ đầu lại không được cung cấp. Điều đó rất bất lợi cho phát triển cân đối của cây. Vì vậy, trong thời điểm hiện nay cần phải hạn chế đầu tư phân đạm. Nhất là không được bón đơn độc phân urê trong giai đoạn lúa non, mà phải kết hợp với lân và kali. Lượng đạm có thể giảm đi 20-25% so với lúc không bị dịch. Vì bón càng nhiều đạm càng tạo điều kiện thuận lợi cho rầy nâu bùng phát. Bớt phân đạm đi, nhất là trong thời kỳ mạ và thời kỳ nở bụi sẽ cho mức độ an toàn của ruộng lúa tốt hơn. Nên sử dụng bảng so màu lá để khống chế lượng đạm. Chỉ nên duy trì màu xanh lá lúa ở mức 3,5 (giữa khung 3 và 4) là phù hợp cho giai đoạn rầy nâu bùng phát hiện nay. Phân lân và kali rất cần duy trì đúng liều lượng như trong bảng khuyến cáo. Có thể tăng lượng kali để tăng khả năng đề kháng của cây. Sử dụng thuốc BVTV: IPM là biện pháp tốt nhất để quản lý rầy nâu, khi cần thiết mới sử dụng thuốc. Nhưng trong tình hình hiện nay, rầy nâu bùng phát, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá đang xảy ra nghiêm trọng nên phải áp dụng biện pháp dập rầy ngay bằng thuốc hóa học để bảo vệ lúa. Dù là giống lúa kháng rầy, nhưng khi rầy đáp xuống có mang mần bệnh chỉ cần chích một ít thôi cũng đủ khả năng truyền bệnh. Vì vậy, khi phát hiện thấy rầy cánh dài tới có mang mầm bệnh cần phải trị ngay bằng thuốc hóa học. Phải áp dụng phun thuốc theo 4 đúng để diệt càng nhiều những con rầy có cánh đó càng tốt, để khả năng truyền bệnh càng ít đi. Sau đó theo dõi ruộng thường xuyên đến khi thấy nếu con nào còn lại tiếp tục đẻ trứng ra, tùy theo mật số rầy ít hay nhiều tại thời điểm đó để có giải pháp xử lý thích hợp. Nếu mật số cao, chúng ta cần áp dụng thuốc một lần nữa. Theo khuyến cáo của Cục BVTV, trong phòng trị rầy nâu thì không được sử dụng nhóm thuốc lân hữu cơ và cúc tổng hợp. Vì đây là hai nhóm thuốc có khả năng làm cho rầy bộc phát tính kháng cao, chỉ sử dụng nhóm thuốc gốc Carbamat như Bassan, Bassa, Mipcin... hoặc là nhóm ức chế sinh trưởng như Aplaud, Butin... và nhóm thuốc thế hệ mới như Actara, Admire... Khi rầy trưởng thành di trú đến ruộng, thường là những con mang mầm bệnh, nên phải sử dụng những loại thuốc diệt rầy chết nhanh để tránh khả năng truyền bệnh như Bassan, Bassa. Đối với trường hợp mật số rầy thấp hay tuổi rầy đang ở giai đoạn ấu trùng, thì sử dụng thuốc ức chế sự lột xác để vừa khống chế rầy vừa ít ảnh hưởng đến thiên địch. Đối với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị. Nhưng bệnh không tự lây lan từ cây này qua cây khác mà phải nhờ tác nhân truyền bệnh là rầy nâu. Nếu chúng ta diệt rầy một cách hiệu quả, không cho bệnh lây lan thì dù ruộng lúa có bị nhiễm bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá ở mức độ thấp, chúng ta có thể nhổ bỏ những cây bị nhiễm bệnh đó đi và chăm sóc chu đáo, ruộng lúa vẫn cho năng suất khá. Không phải lo cày vùi mất trắng.

Bảng giá nông sản

Hạt mắc ca70.000
Ca cao180.000
Cao su148.000
Gạo IR 50412.500
Cà phê125.600
Bơ sáp25.000
Sầu riêng Ri đẹp65.000
Điều40.000
Hồ tiêu119.000

[Xem tiếp]

Hỏi đáp

Bình Điền giải đáp các câu hỏi về việc sử dụng phân bón và phòng trừ sâu bệnh cho nhà nông.

Đặt câu hỏiXem câu hỏi

 

Tỷ giá Ngoại tệ

 


Top

TẢI ỨNG DỤNG CANH TÁC THÔNG MINH TẠI ĐÂY

Một số biện pháp thâm canh cần lưu ý trong thời điểm dịch rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá (28/11/2

Tại Hội nghị bàn biện pháp phòng trừ rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa tổ chức tại TP. HCM vào ngày 4/11/2006 cho biết diện tích lúa bị nhiễm rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá ở các tỉnh, thành phía Nam ước khỏang 500 nghìn ha, làm giảm sản lượng khỏang 825 nghìn tấn lúa, thiệt hại cho bà con nông dân khỏang 2 nghìn tỷ đồng. Trước nguy cơ dịch bùng phát đang gia tăng, một lọat các biện pháp được khuyến cáo để dập dịch như: Cày bỏ ngay số diện tích lúa bị nhiễm bệnh, không trồng giống lúa nhiễm rầy, gieo sạ đồng loạt, giãn vụ hoặc bỏ hẳn lúa vụ 3 kém hiệu quả để cắt nguồn bệnh lây lan, bón phân cân đối tạo sức đề kháng cho cây lúa, không bón thừa đạm, v.v... Để giúp bạn đọc hiểu thêm về rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá hại lúa tại thời điểm hiện nay, tác giả bài viết này cố gắng đưa những thông tin mới nhất nghiên cứu về rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá của Viện lúa ĐBSCL và một số nhà khoa học quan tâm đến rầy nâu vàng lùn và lùn xoắn lá. Và đề xuất một số giải pháp cần thiết trong thâm canh tăng năng suất lúa tại thời điểm dịch rầy nâu, vàng lùn và lùn xoắn lá đang lây lan. 1. Nhận diện rầy nâu và bệnh vàng lùn hiện nay: Độc tính của rầy nâu tăng cao: Báo cáo mới đây của Viện lúa ĐBSCL cho biết đa phần các giống lúa cao sản hiện nay đều có tính kháng trung bình đến hơi nhiễm. Những giống lúa được chọn tạo theo hướng kháng trung bình sẽ chỉ phát huy tác dụng nếu mật độ rầy nâu thấp, khỏang dưới 1000 com/m2 (2-3 con/tép). Nếu mật số rầy nâu 1000-3000 com/m2, giống trở nên trong tình trạng báo động, và mật số cao hơn 3000 con/m2, giống trở nên nhiễm, bị cháy rầy. Hiện tượng này đã xẩy ra trong vụ ĐX2005-06. Hơn thế nữa, quần thể rầy nâu thay đổi về bản chất di truyền, thể hiện qua độc tính gây hại của nó trên bộ giống chuẩn kháng. Tiến sĩ Lương Minh Châu đã ghi nhận Ptb33 là giống lúa kháng rầy nâu được chọn làm giống chuẩn kháng cho công tác nghiên cứu, biểu hiện tính kháng cấp 0, cấp 1 liên tục suốt 20 năm qua ở ĐBSCL; Nhưng trong đợt bộc phát rầy nâu lần này, nó biểu hiện cấp 5, chứng tỏ độc tính rầy nâu đã thay đổi. Rầy nâu có độc tính cao hơn. Trong tình hình rầy nâu thay đổi độc tính cao như vậy, các giống lúa như OM1490, OM2514, OM2517, OM2717, OM2718 là những giống năng suất cao phẩm chất tốt, hơi kháng rầy nâu thì hiện nay đã thể hiện nhiễm rầy và được khuyến cáo không nên trồng trong giai đọan rầy nâu bùng phát. Các giống lúa đặc sản, gạo thơm như VĐ20, Jasmine85, ST3, OM3536 và các giống lúa nếp đều là những giống lúa nhiễm rầy, đang bị thiệt hại rất nặng trong đợt dịch này. Một số giống có khả năng kháng rầy tốt, đã đứng vững trong đợt dịch vừa qua là: IR64, VNĐ95-20, OMCS2000, OM4495, OM4498, IR50404 và OM576. Bệnh vàng lùn là bệnh mới, chưa có thuốc chữa trị: Các khảo sát đánh giá mới đây của các nhà khoa học Viện lúa Quốc tế IRRI và Viện lúa ĐBSCL cho rằng bệnh vàng lùn là bệnh mới, tác nhân gây bệnh gồm 3 lọai virut là Lùn lúa cỏ, Lùn xoắn lá do rầy nâu lây truyền và Tungro do rầy xanh lây truyền. Trên ruộng lúa bị vàng lùn đều thấy xuất hiện cả 3 lọai virut nêu trên với tỷ lệ có thể khác nhau. Một số mẫu bệnh phẩm thu thập tại Tiền Giang và An Giang vào tháng 3 năm 2006 vừa qua được gởi sang Viện lúa Quốc tế IRRI phân tích cho kết quả 90% là Lùn lúa cỏ, 63% là Lùn xoắn lá và 7% là Tungro. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh này. Một số giống lúa có khả năng chống chịu tốt bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá là: OMCS2000, OM576, AS996, OM4495 và OM4498. 2. Một số biện pháp thâm canh cần lưu ý trong thời điểm dịch bùng phát: Do rầy nâu bùng phát từ vụ ĐX2005-06 nối tiếp sang HT & TĐ2006, đến thời điểm hiện nay đã trở nên hết sức nghiêm trọng. Theo báo cáo gần đây nhất có tới 80% rầy nâu hiện nay có mang mần bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Như vậy khả năng lây truyền bệnh là rất lớn. Cây lúa bị bệnh không phát triển được, lụi dần và chết. Nếu ruộng lúa bị nhiễm vàng lùn 30% trở lên là phải cày bỏ, coi như mất trắng. Yêu cầu hiện nay còn cao hơn, mức độ nhiễm vàng lùn và lùn xoắn lá tới 10% là cày bỏ để tiêu diệt mầm bệnh lây lan, phải chờ 15 ngày sau đó mới được gieo sạ lại. Trước tình hình nghiêm trọng như hiện nay, chúng tôi xin lưu ý một số biện pháp thâm canh cần điều chỉnh cho phù hợp trong thời điểm dịch bùng phát. Lựa chọn giống gieo sạ: Không nên gieo sạ các giống nhiễm rầy trong giai đọan dịch bùng phát. Các giống lúa có tính kháng rầy nâu khá như nêu ở trên cần được nhân rộng và cung cấp cho bà con trong vùng sử dụng để hạn chế thiệt hại do rầy nâu. Chất lượng hạt giống cũng cần hết sức chú ý. Hiện vẫn còn rất nhiều bà con sử dụng giống chất lượng kém, lẫn tạp nhiều. Giống chất lượng kém có sức đề kháng rất yếu và lẫn tạp nhiều rất dễ nhiễm rầy nâu. Bà con nên sử dụng giống xác nhận tại các cơ sở sản xuất giống hoặc đổi lúa giống từ các nông dân cộng tác viên sản xuất giống tại địa phương. Mật độ gieo sạ: Bà con thường áp dụng sạ dày, 200-250 kg/ha. Sạ dày như vậy làm cho ruộng lúa khép tán rất nhanh, ánh sáng xuyên qua tán bị hạn chế nhiều và ẩm độ trong ruộng lúa rất cao ngay từ đầu vụ. Những ruộng lúa như vậy sẽ là nơi trú ngụ lý tưởng của rầy nâu, vì thức ăn nhiều, độ ẩm cao, thích hợp cho rầy nâu phát triển. Vì vậy trong thời gian này, áp dụng sạ thưa là hết sức cần thiết. Không nên sạ dày quá 150 kg/ha; Tốt nhất là sạ theo hàng bằng công cụ sạ hàng với lượng giống khỏang 70-100 kg/ha. Sạ thưa vừa tiết kiện hạt giống, vừa tạo cho ruộng lúa thông thóang, ánh sáng xuyên qua tán lá dễ dàng, cho phép nhận diện rầy nâu nhanh chóng và diệt trừ hiệu quả hơn. Kinh nghiệm sạ thưa trong mấy năm qua đều cho thấy sâu bệnh ít hơn, năng suất cao hơn, và thu nhập của bà con được tăng cao. Điều chỉnh phân bón: Trong điều kiện không có dịch bệnh xẩy ra, liều lượng phân bón được khuyến cáo áp dụng tại ĐBSCL như trình bày trong bảng 1. Tuy nhiên, tùy theo tình hình đất đai, điều kiện canh tác của mỗi địa phương mà lượng phân bón được điều chỉnh cho phù hợp hơn với địa phương đó. Nhưng trong tình hình dịch bệnh đang xẩy ra nghiêm trọng như hiện nay, lượng phân bón cần phải điều chỉnh cho phù hợp để hạn chế tối đa mức độ thiệt hại cho ruộng lúa. Bảng 1. Lượng phân khuyến cáo cho lúa cao sản tại ĐBSCL (theo Viện lúa ĐBSCL) Trong 3 loại phân bón đạm, lân, kali thì phân đạm có tác dụng rất nhanh và bay hơi mất mát cũng rất nhanh. Sau khi bón đạm khoảng 3-5 ngày là đã thấy thể hiện tác dụng rõ rệt và sau 10-15 ngày tác dụng của phân đạm cũng không còn nữa. Bón đạm sớm và bón nhiều rất bất lợi trong thời gian có dịch rầy nâu. Hiện nay vẫn còn khá nhiều trường hợp bà con nông dân duy trì tập quán bón đạm urê đợt đầu ngay sau khi sạ được 1 tuần, mục đích là làm cho nước trong, không bị váng mặt và thúc cho cây lúa vọt lên nhanh chóng để nâng mực nước lên cao, khống chế cỏ dại. Đến tuần lễ thứ 2 mới bón NPK. Duy trì tập quán này trong thời gian dịch bệnh như hiện nay là rất nguy hiểm. Bởi vì cây lúa non được thúc phân urê phát triển xanh mướt, rất hấp dẫn cho rầy nâu đáp xuống và đó là hiểm họa. Hơn nữa khi cây lúa còn nhỏ, khả năng sử dụng phân đạm rất ít, lượng đạm bón vào cây không sử dụng hết sẽ bốc hơi bay mất, rất lãng phí. Trong khi đó lân và kali rất cần để cho cây lúa phát triển nhanh bộ rễ non ngay từ đầu lại không được cung cấp. Điều đó rất bất lợi cho phát triển cân đối của cây. Vì vậy, trong thời điểm hiện nay cần phải hạn chế đầu tư phân đạm. Nhất là không được bón đơn độc phân urê trong giai đoạn lúa non, mà phải kết hợp với lân và kali. Lượng đạm có thể giảm đi 20-25% so với lúc không bị dịch. Vì bón càng nhiều đạm càng tạo điều kiện thuận lợi cho rầy nâu bùng phát. Bớt phân đạm đi, nhất là trong thời kỳ mạ và thời kỳ nở bụi sẽ cho mức độ an toàn của ruộng lúa tốt hơn. Nên sử dụng bảng so màu lá để khống chế lượng đạm. Chỉ nên duy trì màu xanh lá lúa ở mức 3,5 (giữa khung 3 và 4) là phù hợp cho giai đoạn rầy nâu bùng phát hiện nay. Phân lân và kali rất cần duy trì đúng liều lượng như trong bảng khuyến cáo. Có thể tăng lượng kali để tăng khả năng đề kháng của cây. Sử dụng thuốc BVTV: IPM là biện pháp tốt nhất để quản lý rầy nâu, khi cần thiết mới sử dụng thuốc. Nhưng trong tình hình hiện nay, rầy nâu bùng phát, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá đang xảy ra nghiêm trọng nên phải áp dụng biện pháp dập rầy ngay bằng thuốc hóa học để bảo vệ lúa. Dù là giống lúa kháng rầy, nhưng khi rầy đáp xuống có mang mần bệnh chỉ cần chích một ít thôi cũng đủ khả năng truyền bệnh. Vì vậy, khi phát hiện thấy rầy cánh dài tới có mang mầm bệnh cần phải trị ngay bằng thuốc hóa học. Phải áp dụng phun thuốc theo 4 đúng để diệt càng nhiều những con rầy có cánh đó càng tốt, để khả năng truyền bệnh càng ít đi. Sau đó theo dõi ruộng thường xuyên đến khi thấy nếu con nào còn lại tiếp tục đẻ trứng ra, tùy theo mật số rầy ít hay nhiều tại thời điểm đó để có giải pháp xử lý thích hợp. Nếu mật số cao, chúng ta cần áp dụng thuốc một lần nữa. Theo khuyến cáo của Cục BVTV, trong phòng trị rầy nâu thì không được sử dụng nhóm thuốc lân hữu cơ và cúc tổng hợp. Vì đây là hai nhóm thuốc có khả năng làm cho rầy bộc phát tính kháng cao, chỉ sử dụng nhóm thuốc gốc Carbamat như Bassan, Bassa, Mipcin... hoặc là nhóm ức chế sinh trưởng như Aplaud, Butin... và nhóm thuốc thế hệ mới như Actara, Admire... Khi rầy trưởng thành di trú đến ruộng, thường là những con mang mầm bệnh, nên phải sử dụng những loại thuốc diệt rầy chết nhanh để tránh khả năng truyền bệnh như Bassan, Bassa. Đối với trường hợp mật số rầy thấp hay tuổi rầy đang ở giai đoạn ấu trùng, thì sử dụng thuốc ức chế sự lột xác để vừa khống chế rầy vừa ít ảnh hưởng đến thiên địch. Đối với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá hiện vẫn chưa có thuốc đặc trị. Nhưng bệnh không tự lây lan từ cây này qua cây khác mà phải nhờ tác nhân truyền bệnh là rầy nâu. Nếu chúng ta diệt rầy một cách hiệu quả, không cho bệnh lây lan thì dù ruộng lúa có bị nhiễm bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá ở mức độ thấp, chúng ta có thể nhổ bỏ những cây bị nhiễm bệnh đó đi và chăm sóc chu đáo, ruộng lúa vẫn cho năng suất khá. Không phải lo cày vùi mất trắng.
Hotline 1900 6613 Chat với chúng tôi qua Messenger Chat với chúng tôi qua Zalo Fanpage Bình Điền BFC Kênh Youtube Bình Điền BFC