Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu cà phê VN vượt con số 1 tỉ USD, chiếm vị trí thứ hai thế giới, sau Brazil. Nhưng hội thảo “Triển vọng thị trường và chất lượng cà phê 2007” cho thấy xuất khẩu “trên 1 tỉ USD” còn nhiều bấp bênh.
Bài toán dự báo thị trường
Đứng sau Brazil (chiếm 30% thị phần toàn cầu), VN là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới với 10% thị phần. Riêng cà phê Robusta xuất khẩu, VN đứng trên cả Brazil và trở thành nhà xuất khẩu mặt hàng này lớn nhất thế giới. Tuy vậy, khó có thể tưởng tượng là ngay cả hiện nay vẫn chưa có cơ quan nào ở VN dự báo thị trường cho ngành hàng quan trọng này.
Đây là mặt hàng khá nhạy cảm trên thị trường do cung - cầu và giá cả dễ biến động. Ngành cà phê VN và thế giới từng đối mặt với những đợt giảm giá kéo dài trước năm 2004 và hiện tượng năm nay tăng diện tích ào ạt, năm sau lại chặt phá đã xảy ra ở một số địa phương, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nông dân và kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này. Cho tới nay kế hoạch sản xuất chủ yếu vẫn được từng doanh nghiệp xác định riêng lẻ nên rất bị động trong dự phòng nhằm đối phó với những thay đổi về giá cả, cung - cầu trên thế giới.
Ông Đoàn Triệu Nhạn - Phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao VN khẳng định diễn biến của thị trường VN không tách rời tình hình thị trường thế giới, nhưng sẽ là quá muộn nếu chỉ đợi tình hình thế giới biến động rồi mới điều chỉnh. Vẫn chưa biết bao giờ VN có được những số liệu phân tích dành cho riêng mình để có thể chủ động sản xuất và kinh doanh mặt hàng này.
Chất lượng kém do... tiêu chuẩn?
Trong vụ cà phê 2005-2006, Tổ chức Cà phê quốc tế đã phân loại cà phê nhập tại 10 cảng khác nhau ở châu Âu và trong số 1.485.750 bao cà phê bị loại của 17 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu, có đến hơn 72% là cà phê xuất xứ từ VN!
Mặc dù đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu cà phê và là thành viên của Tổ chức Cà phê quốc tế, song VN lại chưa áp dụng những qui định của Tổ chức Cà phê quốc tế như nghị quyết 420 về chất lượng cà phê, trong khi đã có tới 25 nước xuất khẩu mặt hàng này tuân thủ.
|
Lý giải việc này, ông Đoàn Triệu Nhạn cho rằng việc phân loại chất lượng cà phê VN vẫn áp dụng theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Tiêu chuẩn này không xếp hạng theo số lỗi trong cà phê mà chỉ đánh giá theo ba chỉ tiêu sơ đẳng là hàm lượng ẩm, tỉ lệ hạt vỡ và tạp chất. Tiêu chuẩn mới TCVN 4193:2005 vẫn chưa được áp dụng, và do đó cho tới nay cà phê vẫn là loại hàng hóa chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan.
“Như vậy, chúng ta xuất khẩu lẫn cả một lượng cà phê chất lượng xấu mà lẽ ra phải được thải loại từ trước” - ông Nhạn nói. Vì thế, cà phê tốt và xấu bị đánh đồng giá trong khi người mua (nhà nhập khẩu cà phê VN) lại chọn lọc cà phê tốt để bán với giá cao, còn cà phê xấu thì xuất trả. Riêng cà phê Robusta (cà phê vối) của VN có chất lượng khá cao trên thế giới (Brazil mạnh về cà phê Abracia, hay còn gọi là cà phê chè) nhưng khi đến tay nhà nhập khẩu, chất lượng đã bị giảm sút do những yếu kém trong các khâu trồng trọt, thu hái, chế biến, bảo quản và vận chuyển.
Đơn cử một con số: tỉ lệ lượng cà phê tuân thủ kỹ thuật mà Tổ chức Cà phê quốc tế nhận được niên vụ 2003-2004 là 31,6% đã tăng lên 73,1% niên vụ 2005-2006 (xét toàn thế giới). VN nằm trong số 26,9% còn lại. Điều này nói lên sự yếu kém trong quản lý chất lượng xuất khẩu của ngành cà phê VN dẫn đến tình trạng bán “xô” một lượng lớn với giá thấp và số lượng bị thải loại cũng không nhỏ.
Để tăng giá cả và giá trị gia tăng của mặt hàng cà phê, VN sẽ phải giảm dần sản lượng xuất thô và chuyển sang các sản phẩm cà phê chế biến. Theo tiến sĩ Đặng Kim Sơn - Viện trưởng Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, tiến trình này sẽ được thúc đẩy nhanh hơn khi một số đơn vị trong nước bắt tay vào chế biến như cà phê Trung Nguyên. Ông Sơn cũng dự đoán việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước sẽ tăng tính cạnh tranh trong cải thiện chất lượng sản phẩm.
Theo TT