CÓ THỂ SẢN XUẤT RAU AN TOÀN BẰNG PHƯƠNG PHÁP HỮU CƠ
I. Áp dụng phương pháp canh tác hữu cơ có thể đảm bảo sản xuất rau an toàn và ổn định
Các yếu tố gây ô nhiễm trên rau xanh thường có trong phân bón và thuốc BVTV. Đây là những vật tư kỹ thuật không thể thiếu trong canh tác rau. Việc bón phân hữu cơ chưa hoai mục, sử dụng nhiều phân đạm hóa học và thuốc BVTV có độ độc cao là những nguyên nhân chủ yếu làm rau bị ô nhiễm. Từ lâu, các nhà khoa học đã thường xuyên khuyến cáo phải bón phân hữu cơ đã ủ hoai, không bón phân tươi, phân rác, sử dụng thuốc BVTV phải theo nguyên tắc “4 đúng”, đảm bảo thời gian cách ly và sử dụng các loại thuốc sinh học. Tuy vậy trong thực tế việc áp dụng các khuyến cáo trên còn rất hạn chế, tình trạng rau bị ô nhiễm còn rất phổ biến. Lý do là trên thị trường chưa cung ứng đủ các sản phẩm phân hữu cơ đã chế biến, thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học còn quá ít, chưa đủ khả năng khống chế các loại sâu bệnh hại. Khi nông dân còn phải sử dụng các loại phân hữu cơ tự có, thuốc BVTV có nguồn gốc hóa học có độ độc cao, tồn dư lâu trong môi trường thì dù có khuyến cáo cũng không mang lại kết quả như mong muốn. Công tác kiểm tra và quản lý hành chính dù có tăng cường cũng không thể kiểm soát được hết lượng rau không an toàn hàng ngày vẫn đi vào thị trường. Một giải pháp có thể sản xuất ra rau an toàn đồng thời cải thiện môi trường đất, nước trong vùng thân canh rau đó là canh tác rau theo hướng hữu cơ. Phương pháp canh tác hữu cơ có thể hiểu là toàn bộ vật tư phân bón, thuốc BVTV, các chế phẩm tăng trưởng… được sử dụng trong sản xuất rau đều có nguồn gốc hữu cơ, sinh học thân thiện với môi trường. Các vật tư đầu vào của sản xuất được chọn lựa và kiểm soát đủ tiêu chuẩn của sản xuất hữu cơ (theo International Federation of Organic Agriculture Movements –IFOAM, 2003) thì sản phẩm đầu ra về cơ bản là an toàn. Chỉ có thể canh tác rau bằng phương pháp hữu cơ mới có thể đảm bảo có rau an toàn thực sự và ổn định. Các loại phân bón và chế phẩm theo tiêu chuẩn này sẽ thay thế các loại phân bón, chế phẩm hóa học và các phụ phẩm tự nhiên kém chất lượng.
II. Các chế phẩm sinh học hiện tại đủ đáp ứng yêu cầu sản xuất RAT bằng phương pháp canh tác hữu cơ
Thời gian gần đây, Bộ nông nghiệp và PTNT đã có chủ trương và nhiều biện pháp khuyến khích tạo điều kiện cho đăng ký vào danh mục nhiều loại chế phẩm sinh học phục vụ sản xuất. Hàng loạt phân bón hữu cơ vi sinh chất lượng cao với các nhãn hiệu uy tín đã ra đời như Đầu Trâu, Komix, Humix…và nhiều chế phẩm khác.

1. Xử lý đất và bón lót:
- Chế phẩm bột rễ derris: khoảng 10-20gr/m2, khoảng 70-140kg/ha - Phân chuồng được xử lý nấm Trichoderma: tỷ lệ 1 tấn phân chuồng + 2-3kg nấm Trichoderma ủ theo quy trình khoảng 1,5-2 tháng, bón khoảng 7-10 tấn/ha hoặc phân hoai mục tự nhiên + 2-3 kg chế phẩm nấm Trichoderma trộn đều trước khi bón. - Phân hữu cơ sinh học Biorganic No1: 300-500 kg/ha. Các chế phẩm và phân bón trên trộn đều vào đất mặt trước khi gieo trồng. Chất Rotenon trong cây derris trừ sâu non bọ nhảy, tuyến trùng đất, nấm Trichoderma có tác dụng diệt một số nấm có hại trong đất. -Bột vỏ sò, bột đá phosphat tự nhiên… 300-500 kg/ha
2. Bón thúc:
Tùy theo từng loại rau mà chủng loại phân bón và lượng bón cũng khác nhau, trên nguyên tắc các loại phân này phải giàu dinh dưỡng và dễ tiêu để đáp ứng đủ nhu cầu sinh trưởng của cây trong thời gian ngắn. Phương pháp canh tác hữu cơ áp dụng có triển vọng nhất đối với nhóm rau ăn lá: cải xanh, cải ngọt, rau diếp, rau muống, rau mồng tơi… có thời gian sinh trưởng ngắn khoảng 20-45 ngày sau khi gieo hoặc trồng cấy. - Thúc 1 (sau khi mọc hoặc trồng cấy khoảng 10-15 ngày): 7-10 tấn/ha hỗn hợp phân chuồng + nấm ở trên - Thúc 2 (sau thúc 1 khoảng 10-15 ngày): 7-10 tấn/ha hỗn hợp phân chuồng + nấm - Thúc 3 ( sau thúc 2 khoảng 10-15 ngày với loại rau dài ngày khoảng 40-45 ngày): 7-10 tấn/ha hỗn hợp phân chuồng + nấm Sử dụng phân bón lá cho rau định kỳ khoảng 5-7 ngày/lần ngay sau khi cây có lá thật hoặc hồi xanh sau khi cấy với loại phân bón lá hữu cơ sinh học như Aminofit, Phomix…các loại phân này có các acid amine dễ tiêu, các chất kích thích sinh trưởng tự nhiên có hiệu quả cao và an toàn cho thực vật và người sử dụng rau. Qua tính toán, lượng phân bón trên hoàn toàn đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho cây rau ăn lá.
3. Phòng trừ sâu bệnh:
- Với nhóm sâu ăn lá như sâu tơ, sâu xanh, sâu khoang, rầy rệp, bọ phấn sử dụng một số thuốc trừ sâu sinh học như Đầu trâu Bi-sad 0.5 ME (Emamectin Benzoate), Đầu Trâu Bicilus 18WP (BT) - Với rầy rệp, nhện trắng, nhện đỏ.. sử dụng thuốc trừ sâu sinh học FEAT 25 EC (Abamectin + dầu khoáng), Đầu Trâu Jolie 1.1-2.6 SL (Matrine) - Với bệnh thán thư, sương mai, đốm vàng, thối gốc, thối rễ… sử dụng thuốc trừ bệnh sinh học Olicide 9DD hoặc Thumb 0.5 SL (hoạt chất Chitosan) có hiệu quả cao. Có thể sử dụng các chế phẩm này hòa loãng vào nước bằng 1/3-1/2 nồng độ khuyến cáo cho phun để ngâm hạt giống. Xử lý hạt giống có tác dụng kích thích hạt nảy mầm sớm và hạn chế một số nấm bệnh ngay từ đầu trên hạt giống, kích thích cây trồng sinh trưởng mạnh.
III. Một số kiến nghị và giải pháp:
Vấn đề đặt ra là giá thành sản xuất 1 kg rau theo hướng hữu cơ so với rau canh tác theo hướng hóa học hiện nay như thế nào? Một số nghiên cứu của Công ty phân bón Bình Điền về sản xuất rau theo hướng hữu cơ năm 2004-2005 tại xã Tân Phú Trung –huyện Củ Chi- Tp. Hồ Chí Minh cho thấy: Trên cây rau cải xanh, với lượng bón 25 tấn phân trâu bò có ủ nấm trichoderma, bón lót và thúc 2 lần, sử dụng phân bón lá Agrostim xịt cách nhau 5-7 ngày/lần, điều kiện đất chuyên canh rau, sử dụng nước ngầm để tưới. Năng suất thu được 17,19 tấn/ha, tỷ lệ lãi/vốn là 2,10 trong khi năng suất rau theo tập quán là 19,0 tấn/ha và tỷ lệ lãi/vốn là1,95 (Phạm Anh Cường, 2005). Với chi phí sản xuất rau theo hướng hữu cơ có thể cao hơn so với sản xuất theo hướng hóa học nhưng bán giá cao hơn, lợi nhuận sẽ cao hơn. Về góc độ quản lý chuyên ngành cần có những hướng dẫn quy định cụ thể thực hiện sản xuất rau theo hướng hữu cơ, cần xây dựng tiêu chuẩn sản xuất và chế biến rau hữu cơ, đồng thời có chiến lược xây dựng thương hiệu cho rau hữu cơ ở Việt Nam.